SKKN Lựa chọn một số trò chơi vận động phù hợp với học sinh khối 10 nhằm tạo hứng thú nâng cao thành tích trong nội dung chạy bền

SKKN Lựa chọn một số trò chơi vận động phù hợp với học sinh khối 10 nhằm tạo hứng thú nâng cao thành tích trong nội dung chạy bền

Đảng và nhà nước ta đã khẳng định con người là vốn quý nhất của xã hội, là nguồn lực to lớn nhất và quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Đồng thời cũng khẳng định sức khoẻ là vốn quí nhất của con người là cơ sở để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội.

 Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm nhiều hơn tới sự nghiệp phát triển của TDTT, trong đó có công tác giáo dục thể chất trong nhà Trường lại càng được coi trọng và là một bộ phận không thể thiếu được của nền giáo dục nước nhà.

 Mục đích của giáo dục thể chất là: “Khôi phục và tăng cường sức khoẻ, xây dựng con người mới phát triển toàn diện, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”.

 Công tác giáo dục thể chất trong nhà Trường hiện nay là điều hết sức cần thiết, nó gắn liền và góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VII, “Nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động tri thức và tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo”. Những năm qua công tác giáo dục thể chất trong các trường học tuy đã đạt được một số kết quả nhưng để có sự ham thích của học sinh đối với thể thao đang còn hạn chế, đặc biệt sự yêu thích hứng thú đối với nội dung chạy bền.

 Chính vì muốn cho học sinh đam mê, hứng thú với môn chạy bền thì chúng ta cần phải tạo được một không khí vui vẻ bằng cách đưa các trò chơi vào các tiết học. Thông qua trò chơi các em dần dần tích cực tập luyện hơn.

 Chạy bền có tác dụng giúp cho học sinh nâng cao năng lực hoạt động của cơ thể, đồng thời phát triển các tố chất cần thiết, mặt khác thông qua chạy bền mà học sinh rèn luyện được tính kiên trì, bền bỉ, tính kỉ luật cao.

 

doc 21 trang thuychi01 7292
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Lựa chọn một số trò chơi vận động phù hợp với học sinh khối 10 nhằm tạo hứng thú nâng cao thành tích trong nội dung chạy bền", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LÊ HOÀN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 LỰA CHỌN MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG PHÙ HỢP VỚI HỌC SINH KHỐI 10 NHẰM TẠO HỨNG THÚ NÂNG CAO THÀNH TÍCH TRONG NỘI DUNG CHẠY BỀN
 Người thực hiện: Trịnh Thị Hương
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Hoàn
	 SKKN thuộc lĩnh vực: Thể dục
THANH HOÁ NĂM 2017
Mục lục
Trang
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
 a. Đặc điểm tâm- Sinh lí học sinh khối 10 liên quan đến sức bền
5
 b. Tìm hiểu chung về sức bền
6
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
7
2.3. Giải pháp
 2.3.1. Ý nghĩa của trò chơi phát triển sức bền.
10
 2.3.2. Quy trình tổ chức chơi trò chơi
11
 2.3.3. Các trò chơi được đưa vào trong tiết học khối 10
11
2.4. Hiệu quả của SKKN
13
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận 
16
3.2. Kiến nghị
16
Tài liệu tham khảo 
17
Danh mục các chữ viết tắt 
19
Danh mục SKKN đạt giải cấp tỉnh
20
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
	Đảng và nhà nước ta đã khẳng định con người là vốn quý nhất của xã hội, là nguồn lực to lớn nhất và quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Đồng thời cũng khẳng định sức khoẻ là vốn quí nhất của con người là cơ sở để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội.
 	Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm nhiều hơn tới sự nghiệp phát triển của TDTT, trong đó có công tác giáo dục thể chất trong nhà Trường lại càng được coi trọng và là một bộ phận không thể thiếu được của nền giáo dục nước nhà.
 	 Mục đích của giáo dục thể chất là: “Khôi phục và tăng cường sức khoẻ, xây dựng con người mới phát triển toàn diện, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”.
 	Công tác giáo dục thể chất trong nhà Trường hiện nay là điều hết sức cần thiết, nó gắn liền và góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VII, “Nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động tri thức và tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo”. Những năm qua công tác giáo dục thể chất trong các trường học tuy đã đạt được một số kết quả nhưng để có sự ham thích của học sinh đối với thể thao đang còn hạn chế, đặc biệt sự yêu thích hứng thú đối với nội dung chạy bền. 
 	Chính vì muốn cho học sinh đam mê, hứng thú với môn chạy bền thì chúng ta cần phải tạo được một không khí vui vẻ bằng cách đưa các trò chơi vào các tiết học. Thông qua trò chơi các em dần dần tích cực tập luyện hơn. 
 	 Chạy bền có tác dụng giúp cho học sinh nâng cao năng lực hoạt động của cơ thể, đồng thời phát triển các tố chất cần thiết, mặt khác thông qua chạy bền mà học sinh rèn luyện được tính kiên trì, bền bỉ, tính kỉ luật cao. 
 	Môn chạy bền được dạy xuyên suốt chương trình từ lớp 10 đến lớp 12 của bậc THPT. Tập chạy bền để phát triển sức bền với cự ly chạy thường 400m trở lên, học sinh phần lớn ngán, ngại tập luyện vì chạy bền là nội dung tập luyện tương đối đơn điệu, đòi hỏi năng lực, sức chịu đựng của người tập rất cao, vì phải hoạt động trên một đoạn đường dài, khả năng chống chịu mệt mỏi của cơ thể cao, quá trình luyện tập nhất thiết bản thân phải nổ lực và cần cù, tính kiên nhẫn, bền bỉ, dẻo dai.
 	 Khi tổ chức các trò chơi giáo viên cho học sinh chơi đi chơi lại một trò chơi quá nhiều lần gây ra hiện tượng học sinh nhàm chán, không có hứng thú trong học tập, không có sự ganh đua giữa tổ này với tổ khác, đội này với đội kia, giải thích và hướng dẫn luật chơi không cụ thể nên tính tổ chức kỷ luật không cao.
 	 Bên cạnh đó sự đầu tư của cấp trên chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh, gây không ít khó khăn cho giáo viên, đa số giáo viên thiếu sáng tạo trong tổ chức dạy học vì thế học sinh chưa đạt yêu cầu về định lượng, giáo viên chia nhóm, đội chơi không đồng đều nên có sự không cân sức. Mà yêu cầu hàng đầu của giáo dục thể chất hiện nay là nâng cao thể lực cho học sinh.
 	 Ngoài nội dung chương trình bắt buộc trong phân phối chương trình giáo viên thường ít chú ý biên soạn (ở phần trò chơi do GV chọn), chưa tìm tòi những trò chơi mới lạ, hấp dẫn để đưa vào phục vụ mục đích giảng dạy, hoặc nếu có thì còn đơn giản kém phong phú và hấp dẫn, chưa đưa ra hình thức thưởng phạt thích đáng. Chính vì vậy tôi đi sâu vào nghiên cứu và mạnh dạn chọn đề tài này nhằm nâng cao chất lượng dạy học thể dục nói chung và dạy nội dung chạy bền nói riêng góp một phần nhỏ công sức hoàn thành mục tiêu này mà ngành giáo dục đặt ra.
 	Qua đề tài này mục đích của bản thân nhằm phát huy tối đa khả năng vận động của các em, giúp các em tích cực tự giác tập luyện nhằm nâng cao sức khỏe thông qua các trò chơi đa dạng, phong phú bởi trò chơi tôi đưa vào được sử dụng như một nội dung học tập, vừa là phương tiện rèn luyện sức khỏe, thể lực và giáo dục đạo đức cho học sinh. Các trò chơi này mang đầy đủ các đặc điểm, tính hấp dẫn, lôi cuốn học sinh nhất, thu hút các em vào luyện tập tạo sự hứng thú trong học tập. Với những yêu cầu cấp bách trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài:
“Lựa chọn một số trò chơi vận động phù hợp với học sinh khối 10 nhằm tạo hứng thú nâng cao thành tích trong học nội dung chạy bền” 
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua quá trình nghiên cứu lựa chọn một số trò chơi vận động tạo cho các em sự say mê, hứng thú trong môn học thể dục, đặc biệt là nội dung chạy bền. Giúp các em rèn luyện thân thể tốt, có sức khỏe đảm bảo trong việc học tập.
 	Trên cơ sở đó mà góp phần nâng cao thành tích cho học sinh THPT nói chung, học sinh THPT Trường tôi nói riêng và nhằm phát hiện tài năng trẻ sớm hơn để nâng cao thành tích chạy bền trong tương lai.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu:
 - Đối tượng chủ thể: “Lựa chọn một số trò chơi vận động phù hợp với học sinh khối 10 nhằm tạo hứng thú nâng cao thành tích trong học nội dung chạy bền
 - Đối tượng khách thể: Học sinh khối 10
b. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối 10 của năm học 2016 – 2017 Trường THPT Lê Hoàn nơi tôi giảng dạy.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp đọc, phân tích tổng hợp tài liệu.
 Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Là phương pháp được dùng phổ biến trong nghiên cứu khoa học.
	 - Sách GV Thể dục 10, 11, 12 (Nhà XB Giáo dục)
 - Lí luận GDTC và phương pháp dạy học TDTT.
 - Bác Hồ với thể thao Việt Nam (Nhà xuất bản thể dục thể thao Hà Nội) 
 - Lý luận và phương pháp thể dục thể thao (Nhà xuất bản thể dục thể thao Hà Nội) 
 - Tâm lý học lứa tuổi (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội)
 - Trò chơi thi đua ngoài trời (Nhà xuất bản trẻ)
 - Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
 - Các tài liệu trên mạng Internet
 - Sách điền kinh- NXB thể thao
 - Sinh lý học thể dục thể thao - NXB TDTT
 - Các phương pháp dạy học tích cực - Bộ GD&ĐT
b. Phương pháp quan sát sư phạm.
 - Nghiên cứu khoa học TDTT phải dựa trên cơ sở của sự quan sát liên tục, quan sát các buổi tập của học sinh để đánh giá việc tập luyện, khả năng vận động qua đó để sử dụng các trò chơi cho phù hợp.
 	 Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi tổ chức thực nghiệm tiến hành nhận xét, đánh giá, ghi chép những biểu hiện thích nghi trong tập luyện.
c. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
 	 Sử dụng phương pháp này để kiểm nghiệm, đánh giá, tìm hiểu hiệu quả trong quá trình thực nghiệm hệ thống trò chơi vào thực tế.
 	 Sau khi đã tiến hành lựa chọn và xác định hệ thống các trò chơi tôi đã áp dụng hệ thống các trò chơi đó lên nhóm thực nghiệm.
d. Phương pháp phỏng vấn:
 	 Tiến hành phỏng vấn giáo viên cùng học sinh để xác định được việc ứng dụng trò chơi vận động vào tiết học tạo hứng thú cho học sinh có được hưởng ứng nhiều hay không, để từ đó lực chọn các Test ban đầu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
a. Đặc điểm tâm- Sinh lí học sinh khối 10 liên quan đến sức bền.
- Cơ sở sinh lí chung:
 	Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông đang ở quá trình phát triển, trưởng thành nên sự vững chắc của xương, cơ, khớp còn yếu dễ bị sai khớp, cong vẹo sau các lượng vận động nhỏ, các em hồi phục nhanh hơn người lớn nhưng sau lượng vận động lớn thì các em hồi phục chậm hơn. Do đó khi đưa trò chơi vào lượng vận động nhỏ, tần suất vừa phải.
 	Phát triển sức bền chung: Cần phải tăng cường sự phối hợp giữa các chức năng dinh dưỡng và vận động của cơ thể.	
- Đặc điểm hệ xương:
 	 Sự phát triển của hệ xương của lứa tuổi này là một quá trình cốt hoá hoàn thành, chất hữu cơ và nước trong xương còn nhiều, chất vô cơ như can xi còn ít, tính đàn hồi của xương tốt nhưng độ cứng kém. Thành phần của xương cũng bị biến đổi, ở lứa tuổi này là thời kì phát triển chiều dài và chiều ngang của xương khá nhanh, bởi vậy các em cao lên rất nhanh.
- Đặc điểm cơ bắp:
 Cơ bắp chưa phát triển đầy đủ, cơ mềm. Vì vậy sức mạnh của các em còn yếu, tính đàn hồi lớn hơn người lớn do vậy biên độ co dưỗi cũng lớn hơn, nên sức mạnh nói chung của các em kém. Trong sợi cơ ở lứa tuổi này hàm lượng Hemoglobin lớn hơn khả năng cung cấp O2 mạnh, điều này có lợi cho tập luyện sức bền.
 	Cấu tạo cơ thể và hoạt động sinh lí ở cơ thể nam và nữ có nhiều đặc điểm khác nhau. Ở lứa tuổi 16 -18 nữ học sinh lớn lên và phát triển khác nam học sinh,chẳng hạn: ở cùng lứa tuổi nhưng sức mạnh co cơ của nữ không bằng nam; tổng trọng lượng cơ so với trọng lượng toàn thân của nữ chiếm 33%, nam chiếm 44%. Các nhóm cơ cổ tay, bàn tay, vai, cánh tay lưng phát triển yếu, cơ mông phát triển mạnh hơn, tim nữ nhỏ hơn nam nhưng đập nhanh hơn nam, lồng ngực nhỏ hơn nam nên hô hấp kém không sâu. Do đó nên khi lựa chọn trò chơi cũng phải cân nhắc để phù hợp với cả nam lẫn nữ.
- Đặc điểm tim mạch:
 	 Do lồng ngực còn hẹp và năng lực của các cơ hô hấp còn yếu nên dung tích sống nhỏ, để đủ o xi nhịp thở phải tăng nhanh. Khi chơi trò chơi phải nhắc các em tích cực hít vào - thở ra để từ đó các em hình thành được kĩ năng hít thở trong quá trình chạy. Do các em dễ hưng phấn nên trong tập luyện cần có những quảng nghỉ để không làm các em có mệt mỏi sớm.
- Đặc điểm của hệ hô hấp:
 	Ở lứa tuổi này khoang ngực được phát triển nhanh hơn, song vẫn nhỏ hơn người lớn và nam giới cùng tuổi, trong lúc đó sự trao đổi chất lại rất mạnh mẽ nhu cầu Ocao hơn so với người lớn, độ hít thở nông, tần số hô hấp cao, dung tích sống nhỏ hơn nam giới.
- Đặc điểm của hệ thống thần kinh:
	Ở lứa tuổi nhỏ hệ thống tín hiệu một chiếm ưu thế, nhưng ở lứa tuổi 16-18 hệ thống tín hiệu hai đã khá phát triển. Năng lực phân tích tổng hợp tư duy trừu tượng nâng lên rõ rệt, tính hưng phấn cao, khả năng tập trung vẫn còn phân tán trên động tác thừa khá phổ biến dễ mệt mõi thần kinh.
- Những đặc điểm khác về sinh lí:
	Biến đổi cơ thể của các em gái ở lứa tuổi này có nhiều đặc biệt. Buồng trứng bắt đầu hoạt động, có kinh nguyệt nhưng chưa ổn định, cấu tạo xương mỏng và xốp, bắp thịt nhỏ và bắt đầu có nhiều mở ở dưới da. Khối lượng và thể tích của tim kém các em trai, lồng ngực hẹp, dung lượng phổi nhỏ, cơ năng hô hấp và tuần hoàn đều kém so với các bạn nam, do đó khi hoạt động, vận động với khối lượng tương đối lớn thì cơ thể thường dẫn đến mệt mỏi. Từ những đặc điểm trên giáo viên cần chú ý đưa ra các trò chơi cho các em sao cho phù hợp với sức khoẻ của các em, đặc biệt cần chú ý tới các em nữ có kinh nguyệt, về tâm lí các em thường ngượng ngùng, dấu không báo các cho giáo viên biết được sức khoẻ các em mà sử dụng các trò chơi cho phù hợp.
- Đặc điểm về tâm lí:
	Tất cả những biểu hiện vui buồn, lạc quan, phẫn uất là biểu hiện tâm lí của con người cũng như quá trình phát triển tâm lí ở lứa tuổi này. Thích được người khác khen mình, hay tủi thân, thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán, có tính hiếu thắng, các em biết e thẹn, biết xấu hổ, muốn chứng tỏ mình, bắt đầu muốn làm đẹp. Các em thường ngượng ngùng, dấu không báo cho Giáo Viên biết, do đó Giáo Viên cần có những biện pháp tế nhị để biết được sức khoẻ của các em mà sử dụng các trò chơi cho phù hợp.
	Và một điều quan trọng nữa: Trong tập luyện phải phòng ngừa chấn thương đảm bảo hết khả năng dự trữ chức năng của cơ thể. Qua một số đặc điểm tâm, sinh lí nêu trên là cơ sở để lựa chọn hệ thống các trò chơi cho học sinh khối 10.
 b. Tìm hiểu chung về sức bền:
 *. Khái niệm về sức bền.
 Sức bền: Là khả năng của cơ thể chống lại mệt mỏi khi học tập, lao động hay tập luyện TDTT kéo dài.
 Sức bền chung: Là khả năng của cơ thể khi thực hiện các công việc nói chung trong một thời gian dài.
 Sức bền chuyên môn: Là khả năng của cơ thể khi thực hiện chuyên sâu một hoạt động lao động hay bài tập thể thao trong một thời gian dài.
 	Theo các nhà sinh lí: Quá trình tập luyện sức bền hàm lượng Axitlactic thấp do các yếu tố.
 	Cơ bắp của VĐV tập luyện có khả năng trao đổi chất ở điều kiện hàm lượng O2 cao có nghĩa là ít tạo ra Axitlactic hơn người thường.
 	Các VĐV tập luyện sức bền có tỉ lệ các sợi cơ chậm cao và cơ tim phát triển, các sợi cơ chậm và cơ tim có khả năng sữ dụng Axitlactic để làm nhiệm vụ cung cấp năng lượng rất tốt, vì vậy làm cho hàm lượng Axitlactic ở trong cơ và máu giảm đi.
 	Lượng máu tuần hoàn tăng ở các VĐV sức bền làm pha loảng Axitlactic chứa trong máu. Vì vậy làm giảm nồng độ Axitlactic trong máu.
 	 Như vậy phát triển sức bền chung không chỉ làm tăng khả năng hấp thụ O2 tối đa mà còn làm giảm hàm lượng Axitlactic chứa trong máu. Làm tăng khả năng hoạt động khí kéo dài của cơ thể. Đó là một trong những cơ chế quan trọng để nâng cao sức bền chung cho VĐV.
*. Các yếu tố tạo nên sức bền
 	Gồm có năng lực của tuần hoàn, hô hấp và cơ khớp, khả năng duy trì hưng phấn của hệ thần kinh, sự tiết kiệm năng lượng và nguồn dự trữ năng lượng của cơ thể sự phối hợp các chức năng sinh lí cơ thể , kĩ thuật động tác và ý chí.
*. Tác dụng của tập luyện sức bền.
+ Tác dụng của tập luyện sức bền nói riêng hay tập luyện thể dục thể thao nói chung là:
 	 - Tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, đúng phương pháp khoa học sẽ làm cho cơ phát triển thể hiện sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ đàn hồi và linh hoạt của cơ tăng lên.
 	 - Tập luyện thể dục thể thao làm cho xương tiếp thu máu được đầy đủ hơn, các tế bào xương phát triển nhanh và trẻ lâu, xương dày lên cứng và dai hơn, khả năng chống đỡ tăng lên.
 	 - Tập luyện thể dục thể thao làm cho cơ xương phát triển tạo ra vẻ đẹp và dáng đi khỏe mạnh của con người.
 	 - Tập luyện thể dục thể thao sẽ làm cho tim khỏe lên, sự vận chuyển máu của hệ mạch đi nuôi cơ thể và thải các chất cặn bã ra ngoài được thực hiện nhanh hơn. Nhờ vậy khí huyết được lưu thông, người tập ăn ngon, ngủ ngon, học tập đạt hiệu quả cao hơn.
 	 - Nhờ tập luyện thể dục thể thao thường xuyên lồng ngực và phổi nở ra, các cơ quan chức năng hô hấp được khỏe và độ đàn hồi tăng.
 	 - Tập luyện chạy bền thường xuyên liên tục hình thành nhân cách, tính kỉ luật đoàn kết cho chúng ta.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Qua thực tế giảng dạy 8 năm tại trường THPT LÊ HOÀN tôi nhận thấy muốn tổ chức tốt một tiết học không phải là đơn giản. Ở chương trình lớp10 nội dung chạy bền trong phân phối chương trình có nhiều tiết sử dụng trò chơi (do GV chọn) nhưng hầu hết giáo viên chưa chú trọng quan tâm lựa chọn trò chơi, các trò chơi thường lặp đi lặp lại nhiều lần gây sự nhàm chán. Vì vậy nó đòi hỏi người giáo viên phải nổ lực rất nhiều, phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của việc đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy – học bộ môn. Phải tăng cường dự giờ, trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các bài dạy của đồng nghiệp để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Hơn nữa điều kiện vệ sinh sân bãi tập luyện, trang thiết bị dụng cụ còn thiếu rất nhiều nên rất khó khăn cho việc đưa trò chơi vào các tiết học. Để có cơ sở ban đầu Tôi tiến hành điều tra, khảo sát việc luyện tập chạy bền của học sinh để thu thập thông tin và tiến hành phỏng vấn bằng phiếu các em học sinh khối 10 Trường THPT LÊ HOÀN với tống số học sinh trong khối là 320 em. Tôi làm phiếu với những câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Theo em có cần thiết phải tập luyện thể dục nói chung và luyện tập chạy bền nói riêng hay không?
 - Ý kiến trả lời không cần thiết là 230 em chiếm tỷ lệ 71.87%
 - Ý kiến trả lời cần thiết là 90 em chiếm tỷ lệ 28,13%
 	Như vậy, đại đa số học sinh nhận thức không đúng về tác dụng của tập luyện thể dục nói chung và tập luyện chạy bền nói riêng. Tuy nhiên, cũng có một số học sinh có nhận thức đầy đủ, cho rằng việc tập luyện thể dục nói chung và luyện tập chạy bền nói riêng là cần thiết bởi vì nó nâng cao sức khỏe, sự dẻo dai và sức chống chịu tốt hơn.
Câu hỏi 2: Theo em có cần thiết phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi cuốn, hấp dẫn hay không hay chỉ cần một vài trò chơi, chơi đi chơi lại là đủ?
	Ý kiến trả lời như sau: 
 - Số em học sinh cho rằng cần thiết phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi cuốn, hấp dẫn là 270 em chiếm tỷ lệ 84,38%
 - Số em học sinh cho rằng không cần thiết phải thay đổi trò chơi chỉ cần một vài trò chơi, chơi đi chơi lại là đủ có 50 em chiếm tỷ lệ 15,62%
	Như vậy, có thể bước đầu kết luận được rằng số ý kiến cho rằng cần thiết phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi cuốn, hấp dẫn chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó chứng tỏ hướng đi của đề tài này là hợp lý. Vì vậy bản thân tôi cũng như các giáo viên phải nghiêm túc, tìm tòi nhiều trò chơi phù hợp với thực trạng hiện nay ở trường học của mình.
Câu hỏi 3: Vì sao em không thích học nội dung chạy bền?
 Đối với câu hỏi này tôi đã chuẩn bị bốn phương án trả lời, để các em có thể khoanh tròn vào những ý kiến phù hợp với suy nghĩ của mình.
 	1. Do phải hoạt động trên một quãng đường dài, khả năng chống chịu mệt mỏi của cơ thể cao, lượng vận động quá lớn.
2. Do giáo viên không kiểm tra xem xét tình trạng sức khỏe các em cũng như tâm sinh lý của học sinh nên hay cáu gắt, phạt các em không thực hiện đủ nội dung mà giáo viên đề ra.
3. Các em ngại tập luyện chạy bền vì chạy bền là nội dung tương đối đơn điệu, quá trình luyện tập nhất thiết bản thân phải nổ lực và cần cù, tính kiên nhẫn, bền bĩ dẻo dai.
 	4. Do sân bãi không đảm bảo.
 Kết quả thu được như sau: 
 	 Số em chọn cả bốn ý là 245 em chiếm tỷ lệ 76,56%. Còn 75 em chọn một trong 4 đáp án trên chiếm 23,44%.
 	Ý kiến như vậy là hoàn toàn đúng đắn, bởi nội dung chạy bền được áp dụng thời gian dài. Về mặt tâm lý học, việc tập luyện bài tập đơn điệu, ít đổi mới sẽ tạo tâm lý xấu, làm học sinh thiếu hứng thú tập luyện dẫn đến tập luyện thiếu tích cực. Việc tập luyện không tích cực chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu tới việc phát triển thể chất, làm giảm sút ý thức tổ chức kỷ luật và ý thức đối với việc rèn luyện thân thể.
 	 Từ kết quả phỏng vấn, có thể rút ra một số nhận định sơ bộ như sau: Quá trình dạy học nội dung chạy bền trước đây là chưa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em, chưa tạo ra sự hứng thú trong luyện tập do giáo viên chưa thực sự quan tâm tới tâm sinh lý của các em, chưa thật sự gần gũi tâm sự trò chuyện cởi mở. Nguyên nhân của việc tập luyện chạy bền chưa tốt, chủ yếu là do bài tập, trò chơi còn đơn điệu, ít được thay đổi. Nhận thức của học sinh đối với việc tập luyện chạy bền cũng chưa đầy đủ. Còn thiếu những điều kiện về cơ sở vật chất cần thiết để đảm bảo thực hiện nội dung chạy bền có chất lượng.
2.3. Giải pháp
Từ những thực tế trên tôi tham khảo phỏng vấn 4 Giáo Viên trong trường THPT LÊ HOÀN và 20 Giáo Viên đang giảng dạy ở các trường THPT trong Huyện về hệ thống một số trò chơi theo phiếu hỏi (ở phần phụ lục) 
 - Số phiếu phát ra 24.
 - Số phiếu thu vào 24.
Kết quả như sau:
Bảng 1: Hệ thống trò chơi nhằm tạo hứng thú trong nội dung chạy bền.
TT
Hãy chọn các trò chơi dưới đây
Người chọn
Tỉ lệ %
1
Hai lần hít vào,hai lần thở ra
24
100
2
Chạy vượt chướng ngại vật tiếp sức
24
100
3
Chạy dích dắc tiếp sức
24
100
4
Người thừa thứ 3
24
100
5
Chạy thoi tiếp sức
24
100
6
Bật cóc vào vòng tròn tiếp sức
24
100
7
Chạy theo đường gấp khúc
24
100
8
Mèo đuổi chuột
24
100
9
Chiếm vị trí
22
92%
 	Như vậy qua kết qu

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_lua_chon_mot_so_tro_choi_van_dong_phu_hop_voi_hoc_sinh.doc