SKKN Lựa chọ nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
Công tác giáo dục nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các trường THPT trong cả nước. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi có tác động tích cực đến quá trình dạy và học, tạo động lực, làm nòng cốt trong phong trào thi đua dạy tốt - học tốt. Kích thích ý chí vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức và góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh, hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Bộ môn Lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức về Lịch sử dân tộc và thế giới, góp phần tích cực vào việc “phát triển toàn diện cho học sinh về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và óc sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân”.
Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải tìm được những phương pháp dạy - học phù hợp. Trong luật giáo dục (2005) đã nhấn mạnh yêu cầu đối với phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng là “phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
A - MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Công tác giáo dục nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các trường THPT trong cả nước. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi có tác động tích cực đến quá trình dạy và học, tạo động lực, làm nòng cốt trong phong trào thi đua dạy tốt - học tốt. Kích thích ý chí vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức và góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh, hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Bộ môn Lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức về Lịch sử dân tộc và thế giới, góp phần tích cực vào việc “phát triển toàn diện cho học sinh về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và óc sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân”. Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải tìm được những phương pháp dạy - học phù hợp. Trong luật giáo dục (2005) đã nhấn mạnh yêu cầu đối với phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng là “phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đối với môn Lịch Sử, căn cứ vào SGK Lịch sử lớp 12 Nâng cao - phần lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 2000 thường được phân kì thành các giai đoạn nhỏ, ở mỗi một giai đoạn người giáo viên cần hệ thống hoá kiến thức theo các bước sau: + Lựa chọn nội dung cơ bản và sự kiện tiêu biểu trong từng giai đoạn. + Mối quan hệ, tác động của tình hình thế giới và trong nước ở giai đoạn đó và mối quan hệ giữa giai đoạn đó với các giai đoạn khác. + Lựa chọn phương pháp ôn tập, củng cố kiến thức phù hợp. Thực tiễn đã xác nhận rằng, trong nhiều năm qua giáo viên môn Lịch sử ở các trường THPT đã không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm góp phần đào tạo nhiều học sinh giỏi, hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục dạy học. Hàng năm Bộ giáo dục và đào tạo, Vụ giáo dục trung học, Sở giáo dục và đào tạo đều tổ chức các hội thảo như: “Phát triển chuyên môn giáo viên lịch sử trường THPT chuyên” trong cả nước; các trường THPT chuyên khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc bộ cũng tổ chức hội thảo khoa học giúp giáo viên có điều kiện trao đổi nhiều kinh nghiệm dạy học, bồi dưỡng, tuyển chọn học sinh; một số định hướng đổi mới phương pháp dạy học và bồi dưỡng HSG môn Lịch sử có ý nghĩa nhất định đối với thực tiễn dạy học và ôn tập cho học sinhgóp phần nâng cao chất lượng giáo dục môn học. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần trao đổi, bổ sung cho nhau về việc lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy một giai đoạn lịch sử cụ thể. II. Mục đích nghiên cứu Giai đoạn lịch sử từ năm 1930 đến năm 1945 trong chương trình Lịch sử lớp 12 là phần nội dung tương đối khó so với các giai đoạn khác, nó gồm nhiều sự kiện lịch sử diễn ra trong vòng 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giai đoạn lịch sử này gần giống với lịch sử Đảng, nặng về các vấn đề có tính chất lý luận. Đối với học sinh cần cung cấp nội dung gì và phương pháp ôn tập như thế nào để các em nắm được kiến thức có tính chất nâng cao một cách dễ dàng, trong quá trình giảng dạy tôi cũng như những đồng nghiệp khác đều trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu đưa ra những phương pháp để học sinh tiếp cận vấn đề hiệu quả nhất. Hy vọng với đề tài “Lựa chọ nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945” chúng ta tích lũy được nhiều hơn về kinh nghiệm lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập khi giảng dạy một giai đoạn lịch sử cụ thể để tạo cơ sở cho việc triển khai dạy và ôn tập cho các giai đoạn lịch sử tiếp theo. III. Đối tượng nghiên cứu Quan điểm viết báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Viết cho ai, viết để làm gì, viết cái gì và viết như thế nào? không những cần được các nhà báo coi là kim chỉ nam trong hoạt động nghề nghiệp của họ, mà cũng có thể vận dụng rộng ra để nhắc nhở mỗi Giáo viên chúng ta trước khi lên lớp phải biết xác định rõ: Mình dạy cho ai? Dạy để làm gì? Dạy cái gì và dạy như thế nào? Bởi vì có xác định được đối tượng học sinh, mục đích dạy học thì mới xác định được nội dung, phương pháp giảng dạy cho phù hợp, để đạt được hiệu quả cao nhất. Trước hết chúng ta xác định đối tượng học sinh ở đây là những học sinh giỏi đã được các thầy cô trang bị cho kiến thức nền tương đối vững, có kỹ năng học và làm bài ở mức độ nhất định. Vì thế, việc lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho các em cũng cần được giáo viên cân nhắc kỹ lưỡng. Cái khó ở đây là giáo viên phải giúp học sinh ôn lại kiến thức cũ, bởi vì “văn ôn, võ luyện”, nhưng phương pháp đưa ra phải phù hợp để các em không cảm thấy nhàm chán. Đặc biệt là phải giúp học sinh có thêm những kiến thức nâng cao dưới dạng chuyên đề. Thông qua việc tiếp nhận những kiến thức đó, các em có thêm kỹ năng ôn tập và làm bài tốt hơn, hình thành thái độ và cảm xúc đúng mực đối với các vấn đề, sự kiện, nhân vật lịch sử để khi viết bài có thể đưa ra những quan điểm riêng, đúng đắn. IV. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng nhiều phương pháp vừa cụ thể vừa khái quát, vừa cơ bản nhưng lại nâng cao, vừa phải trình bày chi tiết dựa trên quan điểm tư tưởng của Đảng nhưng phải tổng hợp, phân tích, đánh giá rút ra nhận xét, đặc điểm nổi bật qua từng nội dung ôn tập. Áp dụng những phương pháp dạy học mới như: dạy học nêu vấn đề bởi khi dạy vấn đề chuyên sâu không chỉ củng cố, hệ thống hoá kiến thức cơ bản đã học, mà còn giúp học sinh tìm ra bản chất của sự kiện, hiện tượng, phân tích, đánh giá và độc lập rút ra các kết luận cần thiết trên cơ sở trình bày của giáo viên, hình thành kĩ năng trong học tập; Phương pháp trao đổi, đàm thoại: đây là phương pháp cần thiết và phải làm thường xuyên trong việc thực hiện ôn tập, củng cố kiến thức dưới sự chỉ đạo của giáo viên; Phương pháp sử dụng bài tập lịch sử nhằm bồi dưỡng, ôn tập cho học sinh giỏi giúp các em rèn luyện kĩ năng viết bài và xử lý yêu cầu của bài tập, cách tìm “từ khóa” của câu hỏi nhằm đáp ứng đúng yêu cầu, tránh tình trạng “tán sử”, lạc đề B - NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. Cơ sở lý luận Như tôi đã đề cập, trong luật giáo dục (2005) nhấn mạnh yêu cầu đối với phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng là “phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Yêu cầu này phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ dạy học ở trường THPT vì phương pháp dạy, phương pháp học ở trường THPT phải tiên tiến nhất, phù hợp với đối tượng là những học sinh giỏi. Đó là các phương pháp dựa trên hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: Trao đổi, đàm thoại; dạy học nêu vấn đề; phương pháp nghiên cứu học tập theo chủ đề. nhằm tạo ra khả năng tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu để khích thích và phát triển các phẩm chất thông minh và sáng tạo của người học. Học sinh trường THPT không chỉ được học tốt về tri thức khoa học bộ môn mà còn học tri thức về phương pháp, được học cách tự học tốt nhất, được rèn luyện nhiều về mặt tư duy, nhất là tư duy lôgíc, tư duy biện chứng. Học tập nói chung và học tập lịch sử nói riêng là quá trình tiếp thu kiến thức. Kiến thức lịch sử lại hết sức phong phú và tăng lên với mức độ vô cùng nhanh chóng mà trường THPT không sao truyền thụ hết được. Trong khi đó khả năng hiểu biết và khả năng học tập của con người trong cả cuộc đời là có hạn. Cho nên, dạy học ở trường THPT phải phù hợp với đặc điểm tâm lí và khả năng nhận thức của học sinh, cần thiết phải làm cho quá trình học tập của học sinh trở thành quá trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên cứu độc lập. Muốn đạt được điều đó, vai trò của giáo viên là rất lớn, phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều kiển học sinh phát triển tư duy lịch sử nhất là tư duy độc lập, sáng tạo; biết tự tiếp thu tri thức từ nhiều nguồn trong đó phải kể đến việc giải các dạng bài tập lịch sử trong quá trình học bằng cách tự mình suy nghĩ, đặt vấn đề và giải quyết các vấn đề được đặt ra; kết hợp với trao đổi cá nhân , thảo luận nhóm, làm phong phú thêm kiến thức. Sau đó, người học tự kiểm tra đánh giá sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi với bạn bè và dựa vào kết luận của giáo viên, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, đồng thời tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình. Con người chỉ thực sự nắm vững cái mà mình đã giành được bằng hoạt động của bản thân. Học sinh sẽ chỉ ghi nhớ, nắm vững được những gì đã trải qua trong hoạt động nhận thức tích cực của mình, trong đó các em đã phải có những cố gắng trí tuệ và khát vọng học tập. Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho cả giáo viên và học sinh, phần lớn là việc lựa chọn vấn đề lịch sử tổng hợp, sâu rộng (chủ yếu là một sự kiện, nhân vật, một vấn đề chuyên sâu.). Các nội dung được lựa chọn theo chương trình chuyên sâu của THPT phải có mục đích gợi lại những kiến thức cơ bản của chương trình sách giáo khoa đã được thông hiểu và nắm vững để tổng hợp, hệ thống hoá, củng cố, thực hành, rèn luyện kĩ năng đã học, rút ra kết luận, đánh giá quy luật, bài học lịch sử Vấn đề chuyên sâu không chỉ nhằm mục đích ôn tập, củng cố kiến thức đã học, mà tạo ra sự ham muốn hiểu biết, ham muốn học hỏi, tự tìm tòi và phải biết suy nghĩ, biết vận dụng kiến thức đã học để hiểu biết kiến thức mới thì học sinh không thể nào giải quyết được các vấn đề đặt ra như các bài tập lịch sử. Sự nỗ lực trên của các em bao gồm cả tư duy trí tuệ, động cơ tâm lý, ý thức, thái độ tình cảm. Nhưng khi đã giải quyết được vấn đề đặt ra, học sinh sẽ cảm thấy phấn khởi, hứng thú, say mê hơn với bộ môn; đồng thời có niềm tin vào bản thân và có ý chí vươn lên trong cuộc sống. Như vậy, các chuyên đề của môn Lịch sử phải giải quyết được các vấn đề quan trọng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đây là điều hết sức quan trọng, song khó dạy trong chương trình để giúp học sinh có thể khái quát và hệ thống hoá được kiến thức, ôn tập và thi học sinh giỏi đạt kết quả cao. II. Thực trạng vấn đề Trong chương trình Lịch sử lớp 12 - Nâng cao, nội dung Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến nay là một nội dung cơ bản của tiến trình lịch sử Việt Nam thời kì hiện đại, đây cũng là phần nội dung căn bản trong chương trình ôn thi vào Đại học - Cao đẳng và trong các kì thi chọn học sinh giỏi. Đặc biệt, giai đoạn lịch sử từ 1930 đến 1945 là một giai đoạn khó, đối tượng nghiên cứu khá phức tạp với nhiều vấn đề vừa cụ thể vừa khái quát, vừa cơ bản nhưng lại nâng cao, vừa phải trình bày chi tiết dựa trên quan điểm tư tưởng của Đảng nhưng phải tổng hợp, phân tích, đánh giá rút ra nhận xét, đặc điểm nổi bật qua từng vấn đề. Thực tiễn dạy học ở các trường THPT, việc soạn giáo án và thực hiện “LỰA CHỌN NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP CHO HỌC SINH GIỎI KHI GIẢNG DẠY LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945” Giáo viên thường ngại dạy và học sinh ngại học. Bởi lẽ, người giáo viên vừa phải trang bị tốt cho học sinh kiến thức cơ bản (theo chương trình chuẩn), vừa hệ thống hoá kiến thức theo các vấn đề cụ thể về sự ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; về đường lối dân tộc và dân chủ; nét nổi bật của cách mạng Việt Nam qua từng thời kì..Đồng thời, lựa chọn phương pháp ôn tập phù hợp để các em có một hành trang vững vàng dự thi đạt thành tích tốt trong kì thi chọn học sinh giỏi cấp trường, cấp tỉnh, quốc gia, cũng như đạt thành tích tốt trong kì thi THPT Quốc gia là sự kì công và cần sự tâm huyết rất lớn. III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI: “LỰA CHỌN NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP CHO HỌC SINH GIỎI KHI GIẢNG DẠY LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945” 1. LỰA CHỌN NỘI DUNG 1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Chấm dứt thời kì khủng hoảng lâu dài về đường lối, giai cấp lãnh đạo, vạch ra đường lối chiến lược cho cách mạng, đề ra khẩu hiệu chiến lược là “Độc lập dân tộc” “Ruộng đất dân cày”, nêu ra phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắnTrong đó, nét nổi bật là đường lối chiến lược cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) của Đảng đề ra trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (tháng 1/1930) và Luận Cương chính trị (tháng 10/1930). Những điểm giống và khác nhau giữa hai văn kiện trên; sự đúng đắn và sáng tạo của Cương Lĩnh chính trị và hạn chế của Luận Cương chính trị; những điều chỉnh sau này của Trung ương Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến; giữa giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất trong từng thời kì cách mạng 1930 – 1935, 1936 – 1939, 1939 – 1945. 1.2. Nét nổi bật của cách mạng Việt Nam qua từng thời kì 1930 – 1931, 1932 – 1935, 1936 – 1939, 1939 – 1945. Thời kì 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh là một sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng nước ta. Lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng với khẩu hiệu “Độc lập dân tộc” “Ruộng đất dân cày” đã tập hợp đông đảo quần chúng công – nông ở nước ta vùng lên với sức mạnh to lớn, giáng một đòn mạnh mẽ vào hai kẻ thù chính của dân tộc là đế quốc và phong kiến. Đặc biệt từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1930, phong trào phát triển đỉnh cao ở Nghệ An – Hà Tĩnh, một số địa phương nhân dân làm chủ chính quyền và thành lập chính quyền cách mạng theo kiểu Xô viết ở Nga. Qua thực tiễn phong trào đã khẳng định năng lực của Đảng; thể hiện sức mạnh của khối liên minh công – nông; để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về giành chính quyền cách mạng, về phương pháp đấu tranh, về tổ chức và lãnh đạoVì vậy, đây là cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám 1945. Thời kì 1932 – 1935 là thời kì đấu tranh để phục hồi lực lượng cách mạng. Mặc dù thực dân Pháp đàn áp, khủng bố nhưng Đảng vẫn kiên trì đấu tranh, vẫn giữ vững lập trường cách mạng. Đến tháng 3/1935 tại MaCao (Trung Quốc), Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp nhằm chuẩn bị đường lối cho thời kì cách mạng tiếp theo. Thời kì 1936 – 1939 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến mới. Sự ra đời và hoạt động của chủ nghĩa phát xít, những điều chỉnh về đường lối chiến lược cách mạng thế giới tại Đại hội lần VII (7/1935) của Quốc tế cộng sản, đặc biệt khi Mặt trận nhân dân Pháp lên nắm chính quyền, nới lỏng một số quyền tự do, dân chủ và ân xá tù chính trị ở các nước thuộc địaLợi dụng tình hình này Đảng đã thực hiện cuộc vận động dân chủ rộng khắp trong cả nước và trên toàn Đông Dương, với nhiều hình thức đấu tranh chủ yếu là kết hợp công khai với bán công khai và bí mật, tổ chức đấu tranh báo chí, đấu tranh nghị trườngQua phong trào, tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối chính sách của Đảng được tuyên truyền sâu rộng, làm cho ý thức giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao; đào tạo và xây dựng đội quân chính trị hùng hậu đông đảo; uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và ăn sâu trong quần chúng. Thời kì 1939 – 1945 là cuộc tập dượt cuối cùng, toàn diện và trực tiếp cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945. Sự chuẩn bị cho cách mạng về đường lối chiến lược; về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng. Cuộc tập dượt đấu tranh chủ yếu trong Cao trào kháng Nhật (từ tháng 3 đến đầu tháng 8 năm 1945) và thành công trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra trong 15 ngày (từ 15/8/1945 đến 30/8/1945). Ngày 2/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc: kỉ nguyên độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, việc nắm vững nội dung cơ bản trong từng thời kì cách mạng, giúp học sinh suy nghĩ, tổng hợp làm nổi bật những nét chung và nét khác nhau giữa các thời kì cách mạng, lí giải được vì sao có nét khác nhau đó. * Những điểm chung: + Đều khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, với đường lối chiến lược phù hợp trong từng hoàn cảnh khác nhau. + Đều tập hợp và tôi luyện quần chúng đấu tranh, nhất là quần chúng công – nông. + Đều là những cuộc diễn tập đưa đến sự thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho thời kì cách mạng sau. * Những điểm riêng + Thời kì 1930 – 1931: nổi bật về vai trò của liên minh công – nông trong quá trình đấu tranh và hình thức nhà nước công – nông sơ khai của Đảng, đó là chính quyền Xô viết Nghệ - Tĩnh theo kiểu Nga. + Thời kì 1932 – 1935 nổi bật về sự vững vàng của Đảng trước chính sách khủng bố dã man của đế quốc. + Thời kì 1936 – 1939: nổi bật với phương pháp đấu tranh mới với nhiều hình thức: đấu tranh chính trị, hoà bình, công khai kết hợp bán công khai, bất hợp pháp với bí mậtXây dựng đội quân chính trị hùng hậu của quần chúng. + Thời kì 1939 – 1945: nổi bật với việc giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc; tập hợp rộng rãi quần chúng trong Mặt trận dân tộc thống nhất; tổ chức lực lượng chính trị kết hợp lực lượng vũ tranh đấu tranh giành chính quyền cách mạng. Trong những điểm chung và điểm riêng đó thì điểm chung là rất quan trọng vì dù trong thời kì lịch sử nào cách mạng cũng được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của một chính đảng – Đảng Cộng sản Đông Dương. Còn sở dĩ có điểm riêng là do hoàn cảnh lịch sử của mỗi thời kì khác nhau. 1.3. Vấn đề dân tộc - dân chủ trong giai đoạn cách mạng 1930 - 1945. Đây là vấn đề khó, với nhiều sự kiện nhỏ, đòi hỏi học sinh hệ thống hoá kiến thức của từng thời kì cách mạng theo các nội dung cơ bản sau: hoàn cảnh lịch sử; Chủ trương sách lược của Đảng trong việc xác định kẻ thù trước mắt của dân tộc, xác định nhiệm vụ chiến lược, việc tập hợp lực lượng cách mạng và phương pháp đấu tranh; kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm. Đồng thời, học sinh hiểu sâu hơn về đường lối chiến lược cách mạng tư sản dân quyền (tức vấn đề dân tôc – dân chủ) được cụ thể hoá trong từng thời kì cách mạng 1930 – 1935, 1939 – 1939, 1939 – 1945. Chủ trương chiến lược cách mạng tư sản dân quyền được Đảng đề ra tại Hội nghị lần thứ nhất BCH Trung ương lầm thời tháng 10/1930 (thông qua Luận Cương chính trị do Trần Phú soạn thảo); Chủ trương này được điều chỉnh tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (7/1936); chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được đề ra tại Hội nghị Trung ương 6 (11/1939) và hoàn chỉnh tại Hội nghị Trung ương 8 (5/1941). Sự hoàn chỉnh về chiến lược được thể hiện ở ba điểm chủ yếu: + Giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của dân tộc. + Giải quyết vấn đề dân tộc ở Đông Dương trong phạm vi từng nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia. +Hoàn thiện chủ trương khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở Việt Nam. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 và Trung ương 8, một cuộc khởi nghĩa – một trong hai phương thức cách mạng bên cạnh chiến tranh được chuẩn bị để nổ ra vào cuối thời kì này khi có thời cơ. 1.4. Quá trình xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng trong cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Quá trình này được thực hiện sau Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) gồm việc chuẩn bị về lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và diễn ra qua ba bước: + Từ khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) đến trước Cao trào kháng Nhật (9/3/1945) là quá trình xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. + Từ ngày 9/3/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 (13/8/1945) với những hoạt động chính của lực lượng cách mạng trong Cao trào kháng Nhật. + Từ ngày 13/8/1945 đến 2/9/1945 Lực lượng cách mạng thể hiện vai trò của mình đối với thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước tháng 8/1945. Như vậy, dựa trên cơ sở lực lượng chính trị hùng hậu, Đảng đã từng bước xây dựng lực lượng vũ trang, mở rộng căn cứ địa cách mạng, lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cuộc Tổng khởi nghĩa thá
Tài liệu đính kèm:
- skkn_lua_cho_noi_dung_va_phuong_phap_on_tap_cho_hoc_sinh_gio.doc