SKKN Lồng ghép giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua Bài: 21 Công thức phân tử hợp chất hữu cơ (SGK Hóa Học Lớp 11 - Ban cơ bản) Nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh THPT
Người xưa đã từng quan niệm: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất” (bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra) để nhắc nhở việc cẩn trọng trong từng miếng ăn, lời nói. Chưa bao giờ vấn đề đó lại được mọi người ngày nay quan tâm nhiều đến thế. Không còn mong muốn ăn no, mặc ấm nữa người hiện đại mong muốn ăn ngon, món ăn đẹp - bắt mắt. Và đỉnh cao của những yêu cầu đó có lẽ phải còn là ăn uống an toàn. [3]
Tuy nhiên thực trạng thiếu vệ sinh an toàn thực phẩm xảy ra thường xuyên ở nước ta, chỉ một đoạn đường nhỏ ở thị trấn hay thành phố, cảnh quan, hình ảnh quán cóc, quán vỉa hè, các gánh hàng rong đã trở thành quen thuộc, nhắc đến thì ai cũng biết. Thử đặt một câu hỏi nhỏ rằng: “Liệu những quán đó có hợp vệ sinh an toàn thực phẩm?”. Chắc hẳn ai cũng đã rõ câu trả lời. Vệ sinh đâu khi ngồi thưởng thức một bát phở mà bên cạnh lại là những bãi rác bốc mùi nồng nặc, nước cống đen ngòm, khói bụi dày đặc . Vệ sinh đâu khi người bán dùng tay không bốc những thức ăn rồi đặt vào tô. Những điều đó ai cũng biết nhưng vẫn thản nhiên ngồi thưởng thức những món ăn một cách bình thường, thậm chí là ngon lành với lí do: “Giá ở đây rẻ, hợp túi tiền”, “Ăn ở đây vừa nhanh, vừa tiện”
còn có ý kiến cho rằng“ Ngồi đây cho thoáng mát”. Nhiều người khi ăn chỉ nhìn món ăn sau khi chế biến rất ngon lành mà đâu ngờ rằng trước đó nó là cái gì? Là một con cá tươi ngon hay chỉ là một đống thịt đang lúc phân hủy.
Những vụ mà báo chí đã phanh phui khiến chúng ta không khỏi giật mình. Đa phần là do những nguyên nhân như: những người dân đã dùng những thực phẩm đó một cách quen thuộc từ lâu nhưng chỉ khi được phát hiện thì mới bắt đầu phòng tránh. Những bất cập trong việc quản lí về vệ sinh an toàn thực phẩm đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe người dân.
Hóa học là một trong những nhân tố chính giúp giải quyết vấn đề lượng thực thực phẩm của nhân loại khi mà hóa học đã góp phần nghiên cứu và sản xuất các chất hóa học có tác dụng bảo vệ, phát triển thực vật, động vật giúp tăng sản lượng, chất lượng và bảo quản tốt hơn, tuy nhiên, nếu con người sử dụng nó vào mục đích xấu thì sẽ gây ra những hậu quả rất nghiêm trong, đặc biệt lên cả tính mạng cộng đồng.
Nhưng thực tế trong quá trình dạy học GV và HS gặp không ít khó khăn về nhiều mặt.Việc giảng dạy HÓA HỌC còn mang nặng tính lí thuyết thụ động và chưa phù hợp với yêu cầu xã hội.
Là một người GV, người định hướng cho tương lai tôi thấy mình: phải có trách nhiệm tìm tòi, kết hợp tốt các phương pháp, để có thể giáo dục an toàn thực phẩm thông qua môn Hóa Học .Vì thế tôi đã chọn đề tài: Lồng ghép giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua Bài: 21" Công thức phân tử hợp chất hữu cơ”(SGK Hóa Học Lớp 11 - Ban cơ bản) Nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh THPT .
I. MỞ ĐẦU I.1,LÍ DO CHỌ ĐỀ TÀI Người xưa đã từng quan niệm: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất” (bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra) để nhắc nhở việc cẩn trọng trong từng miếng ăn, lời nói. Chưa bao giờ vấn đề đó lại được mọi người ngày nay quan tâm nhiều đến thế. Không còn mong muốn ăn no, mặc ấm nữa người hiện đại mong muốn ăn ngon, món ăn đẹp - bắt mắt. Và đỉnh cao của những yêu cầu đó có lẽ phải còn là ăn uống an toàn. [3] Tuy nhiên thực trạng thiếu vệ sinh an toàn thực phẩm xảy ra thường xuyên ở nước ta, chỉ một đoạn đường nhỏ ở thị trấn hay thành phố, cảnh quan, hình ảnh quán cóc, quán vỉa hè, các gánh hàng rong đã trở thành quen thuộc, nhắc đến thì ai cũng biết. Thử đặt một câu hỏi nhỏ rằng: “Liệu những quán đó có hợp vệ sinh an toàn thực phẩm?”. Chắc hẳn ai cũng đã rõ câu trả lời. Vệ sinh đâu khi ngồi thưởng thức một bát phở mà bên cạnh lại là những bãi rác bốc mùi nồng nặc, nước cống đen ngòm, khói bụi dày đặc . Vệ sinh đâu khi người bán dùng tay không bốc những thức ăn rồi đặt vào tô. Những điều đó ai cũng biết nhưng vẫn thản nhiên ngồi thưởng thức những món ăn một cách bình thường, thậm chí là ngon lành với lí do: “Giá ở đây rẻ, hợp túi tiền”, “Ăn ở đây vừa nhanh, vừa tiện” còn có ý kiến cho rằng“ Ngồi đây cho thoáng mát”. Nhiều người khi ăn chỉ nhìn món ăn sau khi chế biến rất ngon lành mà đâu ngờ rằng trước đó nó là cái gì? Là một con cá tươi ngon hay chỉ là một đống thịt đang lúc phân hủy. Những vụ mà báo chí đã phanh phui khiến chúng ta không khỏi giật mình. Đa phần là do những nguyên nhân như: những người dân đã dùng những thực phẩm đó một cách quen thuộc từ lâu nhưng chỉ khi được phát hiện thì mới bắt đầu phòng tránh. Những bất cập trong việc quản lí về vệ sinh an toàn thực phẩm đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe người dân. Hóa học là một trong những nhân tố chính giúp giải quyết vấn đề lượng thực thực phẩm của nhân loại khi mà hóa học đã góp phần nghiên cứu và sản xuất các chất hóa học có tác dụng bảo vệ, phát triển thực vật, động vật giúp tăng sản lượng, chất lượng và bảo quản tốt hơn, tuy nhiên, nếu con người sử dụng nó vào mục đích xấu thì sẽ gây ra những hậu quả rất nghiêm trong, đặc biệt lên cả tính mạng cộng đồng. Nhưng thực tế trong quá trình dạy học GV và HS gặp không ít khó khăn về nhiều mặt.Việc giảng dạy HÓA HỌC còn mang nặng tính lí thuyết thụ động và chưa phù hợp với yêu cầu xã hội. Là một người GV, người định hướng cho tương lai tôi thấy mình: phải có trách nhiệm tìm tòi, kết hợp tốt các phương pháp, để có thể giáo dục an toàn thực phẩm thông qua môn Hóa Học .Vì thế tôi đã chọn đề tài: Lồng ghép giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua Bài: 21" Công thức phân tử hợp chất hữu cơ”(SGK Hóa Học Lớp 11 - Ban cơ bản) Nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh THPT . I.2, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu nội dung hóa học liên quan đến an toàn thực phẩm trong chương trình hóa học THPT - Xây dựng hệ thống bài tập hóa học theo hướng tích hợp về giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm - Giúp học sinh nắm được các vấn đề nóng hiện nay về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua các bài tập hóa học trong các đề đại học. I.3, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Học sinh của trường THPT Thọ Xuân 5 trong các tiết học Hóa Học có vận dụng phương pháp lồng ghép để giáo dục an toàn thực phẩm vào bài giảng của giáo viên dạy học Hóa Học tại trường THPT Thọ Xuân 5 I.4, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu lí thuyết để nghiên cứu SGK, tài liệu, văn bản có liên quan đến đề tài - Nghiên cứu cơ sở để xây dựng bài tập từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi và bài tập cho đề tài - Điều tra - Phỏng vấn - Dự giờ - Thực nghiệm sư phạm - Thông kê toán học II. PHẦN NỘI DUNG II.1,CƠ SỞ LÍ LUẬN Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, hiện tượng ngộ độc thực phẩm ngày càng xảy ra nhiều trong cả nước. Ngộ độc thực phẩm có thể xảy ra không chỉ trong các tập thể như nhà máy, xí nghiệp, trường học...mà còn xảy ra ngay cả trong gia đình, kể cả thành thị cho đến nông thôn. Thực phẩm không chỉ là nguồn cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng cho con người phát triển, duy trì sự sống và lao động, thực phẩm còn là nguồn tạo ra độc tố cho con người nếu không tuân thủ các biện pháp vệ sinh thực phẩm hữu hiệu. Giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm là rất cần thiết để làm cơ sở cho nhận thức và hành vi cá nhân để đảm bảo sức khỏe cho bản thân và cộng đồng. Giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp con người nhận thức đúng trong việc tìm những nguồn thực phẩm sạch đảm bảo cho sức khỏe con người. II.1.1, Hóa học và vấn đề lương thực, thực phẩm [2] Môn hóa học ở trường phổ thông có nhiều điều kiện thuận lợi để giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm vì hóa học là một trong những nhân tố chính giúp giải quyết vấn đề lượng thực thực phẩm của nhân loại khi mà hóa học đã góp phần nghiên cứu và sản xuất các chất hóa học có tác dụng bảo vệ, phát triển thực vật, động vật giúp tăng sản lượng, chất lượng và bảo quản tốt hơn. Thí dụ: - Sản xuất các loại phân bón hóa học có tác dụng tăng năng suất cây trồng như: Phân đạm, phân lân, phân kali, phân hỗn hợp, phân phức hợp, phân vi lượng,... - Tổng hợp hóa chất có tác dụng diệt trừ cỏ dại tạo điều kiện cho cây lương thực phát triển. - Tổng hợp hóa chất diệt nấm bệnh,... để bảo vệ cây lương thực tránh được dịch bệnh như Etirimol, benoxyl, đồng sunfat... - Sản xuất những hóa chất bảo quản lương thực và thực phẩm, làm chậm sự phát triển của nấm vi khuẩn gây hại cho lương thực, thực phẩm. - Nghiên cứu chế biến thức ăn tổng hợp để tăng sản lượng chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản. Chế biến thực phẩm nhân tạo hoặc chế biến thực phẩm theo công nghệ hóa học. Hóa học giúp thay thế nguồn nguyên liệu làm lương thực, thực phẩm dùng trong công nghiệp hóa học bằng nguyên liệu phi lương thực, phi thực phẩm. Thí dụ: - Thay thế tinh bột bằng hợp chất hiđrocacbon để sản xuất ancol etylic; thay thế việc sản xuất xà phòng giặt từ chất béo bằng sản xuất bột giặt tổng hợp. - Sản xuất glucozơ từ những chất thải như vỏ bào, mùn cưa, rơm rạ,... - Tổng hợp chất béo nhân tạo (bơ magarin) từ axit stearic và glixerol, sự chuyển hóa dầu ( chất béo lỏng) thành bơ, mỡ (chất béo rắn).... - Chế biến protein từ protein tự nhiên. Cùng với ngành công nghệ sinh học, hóa học đã góp phần tạo nên những chất hóa học giúp tạo nên những giống mới có năng suất cao hơn. Thí dụ: Người ta đã nghiên cứu tạo nên giống mới như ngô, đu đủ, khoai tây, cà chua, lúa có khả năng sinh trưởng tốt cho năng suất cao, chất lượng tốt hơn. Hóa học đã góp phần tạo nên những thực phẩm riêng dành cho những người mắc bệnh khác nhau. Thí dụ: Thực phẩm dành ho những người ăn kiêng như bánh, sữa, đường.... Ngành hóa thực phẩm cũng đã chế biến được nhiều loại sản phẩm làm tăng tính thẩm mĩ và hấp dẫn của thực phẩm. Thí dụ: Chế biến đồ hộp để tạo nên vị ngon và bảo quản tốt những thực phẩm cho con người. Một số loại hương liệu, phụ gia thực phẩm làm cho thực phẩm thêm hấp dẫn bởi màu sắc, mùi thơm nhưng vẫn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay đã sản xuất được 200 chất phụ gia cho thực phẩm. II.1.2, Các chất độc hại đang khiến chúng ta phải “ăn bẩn” dưới góc nhìn Hóa học. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang diễn biến ngày một phức tạp và là một điểm nóng được cả xã hội quan tâm. “Ăn gì để tồn tại?” ngày càng khó trả lời khi mà có quá nhiều chất độc hại, thuốc cấm được tìm thấy trong các loại thực phẩm được bày bán công khai ở khắp các chợ cóc, chợ lớn và các siêu thị, dưới góc nhìn Hóa học ta sẽ thấy rõ hơn. 1. Chất tạo nạc Salbutamol Chất tạo nạc hay chất tăng trọng là một hợp chất hóa học thuộc họ β- agonist được Tổ chức Nông lương thế giới (FAO) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xếp vào loại chất độc cấm sử dụng trong chăn nuôi trên toàn thế giới. Trong đó, Salbutamol là một trong 3 chất đứng đầu trong danh mục chất kháng sinh và hóa chất bị cấm sử dụng trong chăn nuôi. Salbutamol được sử dụng với liều lượng rất nhỏ để điều trị bệnh hen suyễn dưới sự kiểm soát chặt chẽ của y bác sĩ. Khi sử dụng trái phép trong chăn nuôi, chất này được dùng với liều lượng cao hơn 5 -10 lần mức cho phép, gây nguy hiểm cho sức khỏe khi ăn vào. Người chăn nuôi pha chất này với thức ăn cho lợn trong khoảng 1 – 2 tháng, sau đó phải xuất chuồng luôn nếu không lợn sẽ thoái hóa và chết. [3] Họ β-agonist gồm 2 nhóm: Nhóm β1-agonist: gồm các chất có tác dụng kích thích tim, được dùng để điều trị sốc tim, suy tim cấp tính như Dobutamine, Isoproterenol, Xamoterol, Epinephrine. Nhóm β2-agonist: Gồm các chất làm giãn cơ, được dùng để điều trị hen suyễn, bệnh phổi mãn tính: Salbutamol(Albuterol), Clenbuterol, Ractopamine, Epinephrine ( thúc chín tố) Fenoterol,Formoterol,Isoproterenol(β1and β2), Metaproterenol,Salmeterol, Terbutaline, Clenbuterol,Isoetarine, pirbuterol, procaterol, ritodrine, epinephrine. [6] 2. Hóa chất Metabisulfite biến thịt heo thối thành thịt bò Sodium Metabisulfite có công thức hóa học là Na2S2O5 [6] chỉ được phép sử dụng để bảo quản rau củ và thủy sản không được phép dùng bảo quản thịt. Hóa chất này có dạng bột pha lê màu trắng hoặc vàng nhạt. Có tính chống ôxi hóa. Nó có thể gây tác dụng dị ứng đối với những thứ nhạy cảm với sunfit, bao gồm các ảnh hưởng đến hệ hô hấp như hen phế quản, tính quá mẫn cảm và các ảnh hưởng riêng biệt khác. [4] Thịt heo nái nguyên mảng được cắt từng khối khoảng nửa kg hoặc cắt lát mỏng ngâm vào một dung dịch được pha với tỉ lệ: 100g hóa chất : 6 lít huyết bò : 56 lít nước lọc. Thịt heo sau khi được ngâm trong dung dịch này sẽ có màu đỏ tươi, có mùi như thịt bò và khử được mùi thịt heo nái. [3] 3. Gà nhuộm da vàng óng bằng “bột sắt” “Bột sắt” là loại màu công nghiệp chứa 2,4 diaminoazobenzene hydrochloride. [6] Chất này được dùng trong công nghiệp sản xuất polymer, thuốc nhuộm tóc, sản xuất cao su, mực in Hóa chất này là một dạng độc tố, khi tích lũy trong cơ thể người có khả năng gây tổn hại cho gan và thận, gây ung thư da, ung thư bàng quang. Tiếp xúc thường xuyên sẽ gây viêm da nặng, kích ứng mắt và chảy nước mắt, hen suyễn, viêm dạ dày, suy thận, chóng mặt, run, co giật, hôn mê. Chất này chỉ được sử dụng trong ngành công nghiệp, tuyệt đối cấm sử dụng trong ngành thực phẩm. Loại bột này được dân buôn gà sử dụng để nhuộm da gà. Chỉ cần nửa thìa cà phê “bột sắt” là có thể nhuộm được 100 con gà, sau khi nhuộm xong gà sẽ có màu vàng óng, phẩm màu ngấm sâu vào da gà, rửa nước cũng không phai màu nên rất khó phát hiện. [3] 4. Chất kháng sinh tiêm vào tôm OTC là dẫn chất Tetracycline được dùng chữa lậu, giang mai, tả, sốt định kỳ, sốt rét ngoài ra còn được dùng để chữa bệnh cho tôm, cá với liều dùng được kiểm soát chặt chẽ và phải tuân thủ theo tiêu chuẩn quốc tế. Tại Việt Nam, người dân và người nuôi tôm không quá xa lạ với tác hại của chất này. [4] Việc sử dụng kháng sinh liều cao sẽ dẫn đến việc phá vỡ sự cân bằng vi sinh trong đường ruột ở người, sản sinh nhiều vi khuẩn độc hại và dẫn đến tình trạng nhờn thuốc. 5. Chất tẩy trắng gạo Trên thị trường hiện nay xuất hiện một số hóa chất giúp gạo trở nên trắng bóng và cơm nở. Hóa chất này có xuất xứ từ Trung Quốc và được bán ở một số chợ lớn tại Việt Nam. Theo các chuyên gia chất này là bezoyl peroxide và calcium peroxide[6]. Bezoyl peroxide là một chất tẩy màu, chất xử lý bột mì và có tác dụng bảo quản bột mì. Calcium peroxide là một chất diệt nấm và vi trùng thường được sử dụng để bảo quản trái cây được tươi lâu. Đây là 2 chất được cho phép sử dụng trong thực phẩm tại Việt Nam. Tuy nhiên, tại Mỹ, Nhật, châu Âu và Canada chúng từ lâu đã bị cấm sử dụng để tẩy trắng và bảo quản bột mỳ, gạo. Các chuyên gia khuyến cáo, nếu lạm dụng 2 chất này sẽ dẫn đến suy gan, suy thận và tăng nguy cơ gây ung thư ở người. 6. Cá nhiễm độc thủy ngân Thủy ngân là một nguyên tố hóa học có ký hiệu là Hg. Thủy ngân là kim loại lưỡng tính, ở thể lỏng, không tan trong nước và dễ dàng bay hơi trong không khí ở nhiệt độ phòng[2]. Thủy ngân dễ dàng xâm nhập vào cơ thể con người thông qua đường hô hấp và qua tiếp xúc với da. Nó được xem là một chất vô cùng độc hại, bởi khi hít vào nó sẽ nhanh chóng tấn công hệ thần kinh trung ương, ảnh hưởng trực tiếp đến não bộ, hệ nội tiết, phổi, răng, các cơ và gây khuyết tật ở thai nhi. Theo báo cáo khoảng 70% thủy hải sản nhiễm thủy ngân ở mức độ cho phép và có thể ăn được. Thủy ngân hữu cơ trong chất thải của các nhà máy công nghiệp thải ra biển đang khiến lượng thủy ngân trong môi trường nước ngày một tăng cao và vượt quá mức cho phép. Cá tôm sống trong môi trường này cũng vì vậy mà nhiễm độc thủy ngân, khiến người dân mắc bệnh khi ăn vào. Ô nhiễm thủy ngân hiện được coi là vấn đề toàn cầu và cần được ngăn chặn ngay khi phát hiện để tránh những hậu quả lâu dài cho nhân loại [3]. II.2,THỰC TRẠNG II.2.1,Thực trang chung Giáo dục an toàn thực phẩm trong dạy - học ở các trường học là rất cần thiết. Để làm cơ sở cho nhận thức hành vi cá nhân và để đảm bảo sức khỏe cho bản thân và cho cộng đồng. Thế hệ trẻ đặc biệt những em học sinh những tương lai của đất nước. Vì vậy việc giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường phổ thông có vị trí đặc biệt, nhà trường là nơi đào tạo những người chủ tương lai của đất nước, nên giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế và thực sự chưa mang lại hiệu quả Với đặc thù hóa học là một môn khoa học thực nghiệm có liên quan đến thực tiễn cuộc sống nên hóa học cũng thuận lợi cho việc giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm cho học sinh. Qua giảng dạy hóa học chúng ta có thể lồng ghép những nội dung vệ sinh an toàn thực phẩm để qua đó khai thác kiến thức, lồng ghép với thực tế làm cho giờ học trở nên sinh động và có ý nghĩa thực tiễn cao. Qua đó giúp cho mỗi học sinh có ý thức hơn về việc bảo vệ sức khoẻ bản thân cũng như cộng đồng. Trong giảng dạy hóa học ở trường phổ thông nếu chúng ta khai thác được kiến thức lồng ghép những hiện tượng trong thực tế, bài tập về giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm trong chính bài học sẽ làm cho giờ học trở nên sinh động, học sinh trở nên yêu thích hứng thú với môn học, từ đó có được kiến thức, thái độ, tình cảm, ý thức về an toàn thực phẩm sâu sắc hơn. Tuy nhiên, không phải bất kì bài dạy nào cũng có kết hợp nội dung này mà phải tuỳ từng nội dung phù hợp để tránh áp đặt, sáo rỗng. Tuỳ vào từng mục tiêu cụ thể, GV có thể sử dụng nhiều hình thức lồng ghép khác nhau trong tiết học nhằm tránh nhàm chán cho học sinh, giúp học sinh luôn nhận thấy mỗi bài học là một điều thú vị, là một sự mới mẻ. Đồng thời nâng cao hiệu quả cho việc giáo dục an toàn thực phẩm mà không mất đi những sai lệch về mục đích, mục tiêu bài dạy. II.2.2, Thực trạng tại trường THPT Thọ xuân 5 Tại trường THPT Thọ xuân 5 học sinh chủ yếu là con em nông dân, kinh tế của gia đình các em chủ yếu là chăn nuôi và trồng trọt nên việc giáo dục cho các em về vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua bài học là rất cần thiết, để các em giống như một tuyên truyền viên đến gia đình, xã hội, từ đó cũng bảo vệ gia đình mình trước những thực phẩm bẩn và tuyên truyền để gia đình có trách nhiệm hơn trong việc nuôi trồng của gia đình những thực phẩm cung cấp ra bên ngoài xã hội. Bản thân tôi lựa chọn bài " Công thức phân tử hợp chất hữu cơ” lồng ghép để giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm vì: Đây là bài xác định CTPT dựa vào tỉ lệ của các nguyên tố nên chỉ cần có các dữ kiện về các nguyên tố là có thể xác định CTPT theo ý của GV, không bị bó hẹp công thức giống một số bài dạy khác nên GV dạy chỉ cần cố gắng tìm tòi các chất rất phổ biến hiện nay giữa hóa học và thực phẩm để lồng ghép vào. Muốn được như vậy GV phải chịu khó thu thập tư liệu (bài viết, phóng sự, tranh ảnh,...). Sau đó, GV phải biết chắt lọc và phân loại theo từng nhóm để dễ dàng khi sử dụng. Khoa học Hoá học thường có liên quan chặt chẽ tới các vấn đề về thực phẩm . Tuy nhiên, không phải bất kì bài dạy nào cũng chứa đựng nội dung này. Chính vì vậy GV cần phải nghiên cứu kĩ nội dung bài giảng và cân nhắc để đưa kiến thức giáo dục an toàn thực phẩm vào một cách sống động. Bởi vì nếu không logic và phù hợp thì nội dung truyền tải sẽ sáo rỗng, mất giá trị, không còn khoa học. Một bài giảng gồm nhiều phần, nhiều mục, tuỳ theo từng nội dung cụ thể mà có thể tích hợp giáo dục an toàn thực phẩm bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhưng dù thế nào di nữa, GV cũng phải nắm vững và chính xác mục tiêu bài dạy để từ đó đưa nội dung giáo dục an toàn thực phẩm vào sẽ không bị khập khiễng, thiếu logic. II.3, ĐỀ XUẤT GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM Tiết: 30 Bài: 21 CÔNG THỨC PHÂN TỬ HỢP CHẤT HỮU CƠ A. MỤC TIÊU BÀI HỌC: 1. Kiến thức : HS biết : - Khái niệm hợp chất hữu cơ , hóa học hữu cơ và đặc điểm chung của hợp chất hữu cơ . - Cách phân loại hợp chất hữu cơ theo thành phần hoặc theo mạch cacbon. -Phương pháp xác định định tính định lượng trong hợp chất hữu cơ. HS hiểu: Vì sao tính chất của các hợp chất hữu cơ lại khác so với tính chất của hợp chất vô cơ. Tầm quan trọng của phân tích nguyên tố trong hợp chất hữu cơ. 2. Kỹ năng : Giải bài tập định tính, định lượng hợp chất hữu cơ. 3. Thái độ: Có hứng thú học tập môn hoá hữu cơ 4. Tích hợp giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm B. CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG DẠY HỌC: 1.GV: - Bảng phân loại hợp chất hữu cơ(SGK) 2.HS: - Ôn tập kiến thức về hợp chất hữu cơ đã học ở cấp THCS. C. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY: I. Ổn định tổ chức: (1 phút) Kiểm tra sĩ số, tác phong của học sinh. II. Kiểm tra bài cũ: III. Dạy học bài mới: (35phút) 1. Đặt vấn đề: * Gợi ý HS viết sơ đồ quá trình xác định công thức phân tử hợp chất hữu cơ. Hợp chất hữu cơ Thành phần nguyên tố Công thức đơn giản nhất Công thức phân tử. 2. Dạy học bài mới: HOẠT ĐỘNG GV VÀ HS NỘI DUNG GHI BẢNG Hoạt động 1: GV: đưa ra 3 phương pháp để lập CTPT hơp chất hữu cơ. [7] Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước GV: Đưa ra 3 TD chia học sinh thành 3 nhóm Yêu cầu mỗi nhóm thực hiện một phương pháp khác nhau, đại diện từng nhóm lên báo cáo Nhóm 1: Dựa vào thành phần phần trăm khối lượng các nguyên tố [1]. Gv giới thiệu về cách tìm CTPT Dựa vào thành phần phần trăm khối lượng các nguyên tố GV: Ancol A là glixerol có CTCT là HO-CH2-CHOH-CH2OH nhưng khi ta thay một nhóm OH bằng ion Cl- có CTCT là HO-CH2-CHOH-CH2Cl tên gọi đầy đủ 3-MonoCloPropanĐiol tên viết tắt là 3-MCPD Trong một số quảng cáo trên truyền hình, ta thường thấy giới thiệu về loại nước tương an toàn “không có3-MCPD”. Đây là chất độc sinh ra trong quá trình lên men tự nhiên dùng trong sản xuất tương truyền thống, là tác nhân gây ung thư rất mạnh. Thông qua bài tập này học sinh có thể biết được công thức hoá học của 3MCPD và trong một số loại nước tương có chất3-MCPD gây ung thư(trên các phương tiện truyền thông đã cảnh báo) từ đó biết cách lựa chọn những loại nước tương an toàn cho sức khỏe . [3] Hoạt động 2: Nhóm 2: Thông qua CT đơn giản nhất. [1]. Gv giới thiệu về cách tìm CTPT thông qua công thức đơn giản nhất GV lí giải thêm Vì nguyên tử của mỗi nguyên tố trong CTPT là số nguyên lần (n) số nguyên tử của nó trong CTĐG. CaHbOc GV: giải thích Salbutamol là chất được sử dụng để bào chế thuốc làm giãn phế quản trị hen suyễn và hiện vẫn được Bộ Y tế cấp phép nhập khẩu. Tuy nhiên, từ lâu Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) đã khuyến cáo không sử dụng chất này trong chăn nuôi do có nhiều tác động nguy hiểm tới sức khỏe con người nếu tích lũy lâu dài trong cơ thể. Hiện nay, vì lợi ích kinh tế trước mắt, nhiều trang trại chăn nuôi ở Việt Nam đã trộn thuốc này vào thức ăn gia súc để lợn lớn nhanh hơn, mông, vai nở hơn, tỷ lệ nạc cao hơn và màu sắc thịt đỏ đẹp hơn, gây ra rất nhiều lo lắng, bức xúc đối với người tiêu dùng. [3] Hoạt động 3: Nhóm 3: Tính trực tiếp theo khối lượng sản phẩm cháy[1]. Gv giới thiệu về cách tìm CTPT Tính trực tiếp theo khối lượng sản phẩm cháy GV:giới thiệu CTCT và tên gọi đây là ancol etylic là loại rượu mà người Việt ta hay dùng để ngâm với thảo dược, động vật hoặc bộ phận của chúng gọi chung là rượu thuốc. Nghiên cứu khoa học cũng cho thấy trong thành phần của các loại rượu thuốc đều có chứa rất nhiều hoạt chất sinh học có “dược tính” quý
Tài liệu đính kèm:
- skkn_long_ghep_giao_duc_ve_sinh_an_toan_thuc_pham_thong_qua.doc
- BÌA PHỤ LỤC.doc
- BÌA SKKN.doc
- MỤC LỤC SKKN QUỲNH.doc
- PHỤ LỤC I.doc