SKKN Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học Vật lý 8 ở trường THCS Nga Hải

SKKN Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học Vật lý 8 ở trường THCS Nga Hải

Mục tiêu của giáo dục hiện nay đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng về lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết cho người học. Nhưng thực tế trong những năm gần đây, tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, xuất hiện những vụ gây gổ, đánh nhau cố ý gây thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn nhân chính là bạn học và thầy cô giáo của họ. Hiện tượng học sinh hút thuốc lá, chơi điện tử, nói tục, chửi bậy cũng gia tăng. Gần đây các tai nạn đuối nước xảy ra khá nhiều, hay tình trạng học sinh đi xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm, một số học sinh trung học cơ sở đi xe máy cũng khá phổ biến

Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và khả năng giao tiếp lại rất kém, nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống. Các em chưa tự chăm sóc được bản thân, còn lệ thuộc vào bố mẹ, người lớn, đứng trước đám đông thì thiếu tự tin, trả lời giáo viên, trả lời người lớn thì cộc lốc, thiếu chủ ngữ; các em học kiến thức môn học nhưng chưa biết vận dụng kiến thức đó vào giải quyết các vấn đề liên quan trong cuộc sống.

Là một giáo viên giảng dạy lâu năm, bản thân luôn trăn trở và lo ngại khi nhận thức của các em có chiều hướng lệch lạc, các em còn thiếu nhiều kỹ năng sống và tôi nhận thấy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là nhiệm vụ cấp thiết và không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân, mỗi gia đình, trường học và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Với mục đích trang bị cho học sinh kiến thức, những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế để trải nghiệm trong đời sống, thiết nghĩ trong mỗi tiết học giáo viên có thể lồng ghép các bài tập, các câu hỏi liên quan đến kiến thức bài học, qua đó giáo dục các em một số kỹ năng cần thiết trong cuộc sống để các em có thể tự tin, tự chủ, để các em trở thành những con người có ích cho xã hội và cũng là góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội.

 

doc 22 trang thuychi01 231212
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học Vật lý 8 ở trường THCS Nga Hải", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Phần
Nội dung
Trang
1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2.Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2.Thực trạng của vấn đề
4
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3.1. Phân loại kiến thức kỹ năng sống
2.3.2.Vận dụng kỹ năng sống thông qua bộ môn
2.3.3.Giáo án minh họa
5
5
14
2.4.Hiệu quả của sáng kiến
18
3.Kết luận,
đề xuất
3.1.Kết luận
19
3.2.Đề xuất
20
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu của giáo dục hiện nay đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng về lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết cho người học. Nhưng thực tế trong những năm gần đây, tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, xuất hiện những vụ gây gổ, đánh nhau cố ý gây thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn nhân chính là bạn học và thầy cô giáo của họ. Hiện tượng học sinh hút thuốc lá, chơi điện tử, nói tục, chửi bậy cũng gia tăng. Gần đây các tai nạn đuối nước xảy ra khá nhiều, hay tình trạng học sinh đi xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm, một số học sinh trung học cơ sở đi xe máy cũng khá phổ biến
Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và khả năng giao tiếp lại rất kém, nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống. Các em chưa tự chăm sóc được bản thân, còn lệ thuộc vào bố mẹ, người lớn, đứng trước đám đông thì thiếu tự tin, trả lời giáo viên, trả lời người lớn thì cộc lốc, thiếu chủ ngữ; các em học kiến thức môn học nhưng chưa biết vận dụng kiến thức đó vào giải quyết các vấn đề liên quan trong cuộc sống.
Là một giáo viên giảng dạy lâu năm, bản thân luôn trăn trở và lo ngại khi nhận thức của các em có chiều hướng lệch lạc, các em còn thiếu nhiều kỹ năng sống và tôi nhận thấy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là nhiệm vụ cấp thiết và không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân, mỗi gia đình, trường học và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Với mục đích trang bị cho học sinh kiến thức, những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế để trải nghiệm trong đời sống, thiết nghĩ trong mỗi tiết học giáo viên có thể lồng ghép các bài tập, các câu hỏi liên quan đến kiến thức bài học, qua đó giáo dục các em một số kỹ năng cần thiết trong cuộc sống để các em có thể tự tin, tự chủ, để các em trở thành những con người có ích cho xã hội và cũng là góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Xuất phát từ thực tế đó, bản thân tôi đã đưa vấn đề giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các tiết dạy. Vì vậy tôi lấy tiêu đề của sáng kiến là:
“LỒNG GHÉP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC VẬT LÝ 8 Ở TRƯỜNG THCS NGA HẢI”
. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của sáng kiến là nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức bộ môn qua đó hình thành ở các em các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao tiếp và ứng xử, kỹ năng hợp tác và chia sẻ, kỹ năng chăm sóc bản thân, kỹ năng phòng tránh các tai nạn, kỹ năng vận dụng kiến thức bộ môn để giải thích các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống... từ đó giúp học sinh phát huy tính tích cực học tập, tư duy sáng tạo, sự ham mê, yêu thích môn học, nhằm nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua bộ môn cũng góp phần tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy - học, nhằm nâng cao năng lực người học, hướng tới việc đào tạo ra những con người có đầy đủ phẩm chất và năng lực giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- SKKN nghiên cứu về một số kỹ năng sống cần giáo dục cho học sinh thông qua dạy học môn vật lý 8.
- Đối tượng khảo sát thử nghiệm là học sinh lớp 8A trường THCS Nga Hải.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết(phân tích, tổng hợp tài liệu).
- Phương pháp dự giờ, rút kinh nghiệm, hợp tác trong chuyên môn.
- Kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học.
- Phương pháp điều tra thực tiễn, kiểm tra, đối chiếu, so sánh.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
- Căn cứ vào mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Căn cứ vào nhiệm vụ năm học 2018 – 2019: Tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, văn hóa ứng xử trong nhà trường; xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực học đường ...
- Căn cứ vào đặc điểm bộ môn: Môn vật lý là bộ môn gắn liền với thực tế, nắm vững kiến thức bộ môn sẽ giúp các em giải quyết được nhiều khó khăn, nhiều vấn đề trong cuộc sống.
- Căn cứ vào quan niệm kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống.
+ Có nhiều quan niệm về kỹ năng sống, nhưng nhìn chung kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
+ Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình với những hoạt động cụ thể nhằm tổ chức, điều khiển để học sinh biết cách chuyển dịch kiến thức, thái độ đã được biết thành hành động thực tế một cách tích cực và mang tính chất xây dựng. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không phải là đưa ra những lời giải đơn giản cho những câu hỏi đơn giản, mà giáo dục kỹ năng sống là việc hướng đến làm thay đổi các hành vi. Có nghĩa là, giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội, là xây dựng và thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực, phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, thái độ và kỹ năng phù hợp.
- Căn cứ vào các kỹ năng cần thiết cho học sinh THCS :
1- Kỹ năng tự phục vụ bản thân
2- Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời
3- Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả
4- Kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc
5- Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân
6- Kỹ năng giao tiếp và ứng xử
7- Kỹ năng hợp tác và chia sẻ
8- Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông
9- Kỹ năng đối diện và ứng phó khó khăn trong cuộc sống
10- Kỹ năng đánh giá người khác.
Từ những căn cứ trên, tôi nhận thấy việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các tiết dạy vật lý là hết sức cần thiết.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thực trạng chung
Xã hội phát triển, con người phải tiếp xúc với nền khoa học kĩ thuật hiện đại. Đòi hỏi con người phải năng động, sáng tạo, tư duy nhanh, thích ứng tốt mọi hoàn cảnh, nhu cầu cuộc sống ngày càng cao. Đây là một điều đáng phấn khởi. Nhưng thực tế đáng lo ngại tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống thực dụng đã lan tràn khắp nơi len lỏi vào trong tư tưởng học sinh. Hiện nay, các em chỉ biết sống cho riêng mình, thờ ơ với những gì diễn ra xung quanh. Hiện tượng đó là do các em thiếu kiến thức về kỹ năng sống. Tình trạng đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học, không hứng thú học tập xuất hiện ngày một nhiều hơn.
Nguyên nhân thì có nhiều nhưng chung quy là nhận thức, ý thức và vấn đề cơ bản là do các em thiếu hiểu biết về kỹ năng sống. Đây là vấn đề nóng bỏng được ngành giáo dục và xã hội vô cùng quan tâm.
Tuy nhiên công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chưa được đầu tư
đúng mức về thời gian, về tài liệu, cơ sở vật chất giảng dạy.
Về phía các đoàn thể xã hội khác, nhìn chung đều có tham gia vào công tác này, nhưng chưa thực sự quan tâm đúng mức. Đặc biệt, về phía gia đình, vì nhiều nguyên nhân mà hầu hết các bậc phụ huynh đều chưa quan tâm, chưa dành thời gian nhiều cho việc giáo dục kỹ năng sống cho con em mình .
2.2.2.Thực trạng về vấn đề lồng ghép dạy kỹ năng sống cho học sinh ở trường THCS Nga Hải trong những năm học qua
*) Đối với nhà trường
Thời gian để giáo dục kỹ năng sống cho các em còn ít, mới chỉ dừng lại ở các tiết chào cờ, hay một số hoạt động nhân các ngày lễ lớn trong năm như: 20/11, 26/3, 30/4.
*) Đối với giáo viên:
Giáo viên chủ yếu chú trọng đến việc dạy kiến thức bộ môn, chưa chú trọng nhiều vào việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết dạy.
Giáo viên các bộ môn chưa kết hợp được với nhau nhiều trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho các em.
*) Đối với học sinh :
Qua khảo sát thực nghiệm đối với nhóm học sinh khối 8 trường THCS Nga Hải về nhận thức kỹ năng sống, tôi thu được kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Kỹ năng giao tiếp và ứng xử
Kỹ năng
hợp tác và chia sẻ
Kỹ năng phục vụ, chăm sóc bản thân
Kỹ năngvận dụng kiến thức
Kỹ năng phòng tránh tai nạn
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
8A
25
10
40
11
44
9
36
10
40
8
32
8B
22
9
40.9
11
50
10
45.5
9
40.9
7
31.8
Thái độ của các em khi nói đến những vấn đề liên quan đến kỹ năng sống còn rất mơ hồ, các em chưa hề mạnh dạn trong quá trình tìm hiểu hay tiếp thu những kiến thức đó.
Là một giáo viên dạy bộ môn vật lý, tôi nhận thấy môn vật lý là môn học gắn liền với thực tế, và qua bộ môn vật lý có thể giáo dục cho các em một số kỹ năng sống cần thiết. Việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn góp phần khơi dậy ở học sinh lòng yêu thích môn học.
Đề tài này tôi tiến hành áp dụng đối với học sinh lớp 8A, trường THCS Nga Hải.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
2.3.1 Phân loại kiến thức kỹ năng sống:
Căn cứ vào nhóm 10 kỹ năng cần thiết giáo dục cho học sinh trung học cơ sở, căn cứ vào kiến thức bộ môn vật lý 8, tôi nhận thấy chương trình vật lý 8 có thể lồng ghép giáo dục cho học sinh một số kỹ năng sống. Chia làm 5 nhóm:
1. Kỹ năng giao tiếp và ứng xử
2. Kỹ năng hợp tác và chia sẻ
3. Kỹ năng sống tự phục vụ, chăm sóc bản thân
4.Kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào việc giải thích các hiện tượng trong thực tế đời sống, học tập và sản xuất
5. Kỹ năng phòng tránh tai nạn trong cuộc sống
2.3.2. Vận dụng kỹ năng sống thông qua bộ môn:
Để việc lồng ghép kỹ năng sống thông qua bộ môn vật lý 8 đạt hiệu quả cao, tránh gò bó, ôm đồm đi quá đà ảnh hưởng đến nội dung bài dạy thì đòi hỏi giáo viên cần phải chuẩn bị đầy đủ và đúng các quy trình của một tiết dạy. Giáo viên phải đưa ra các câu hỏi phát huy tính tích cực phù hợp với mọi đối tượng, thực tế, gần gũi với các em thì mới giáo dục kỹ năng sống có kết quả cao.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được thực hiện xuyên suốt cả năm học nhưng để cô đọng tôi xin minh họa vấn đề này ở một số bài về một vài kỹ năng sống. Cụ thể như:
I. Kỹ năng giao tiếp và ứng xử
1. Kỹ năng giao tiếp:
* Kỹ năng giao tiếp là tập hợp những quy tắc, cách ứng xử, tương tác được đúc kết bằng những kinh nghiệm trong quá trình giao tiếp hằng ngày, bao gồm các kỹ năng như: kỹ năng lắng nghe, thấu hiểu; kỹ năng quan sát; kỹ năng sử dụng ngôn từ, hình thể; kỹ năng thuyết phục, đồng cảm
* Kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Có được một kỹ năng giao tiếp tốt học sinh sẽ hợp tác với người khác tốt hơn, dễ dàng thành công hơn trong cuộc sống. Vì vậy trong tất cả các tiết dạy tôi đều giáo dục cho các em kỹ năng giao tiếp.
Chẳng hạn: Khi học sinh trả lời câu hỏi có một số học sinh khác vẫn giơ tay, giáo viên nên để cho học sinh trả lời xong, yêu cầu học sinh khác nhận xét, rút ra kết luận cuối cùng, sau đó giáo viên mới nhắc nhở: các em cần lắng nghe ý kiến của bạn, khi bạn trả lời các em không nên nói leo, không nên giơ tay; nếu bạn trả lời chưa đúng các em có thể nhận xét và bổ sung khi các bạn đã trả lời xong; trong giờ học phải chú ý lắng nghe giáo viên giảng bài. Từ đó giáo dục các em kỹ năng lắng nghe người khác nói.
Hoặc học sinh thường có thói quen trả lời trống không, không đầy đủ, giáo viên cần nhắc các em câu trả lời phải đầy đủ, chính xác. Từ đó giáo dục cho các em kỹ năng sử dụng ngôn từ.
2. Kỹ năng ứng xử có văn hóa:
Ở địa bàn nông thôn do thói quen các em thường xưng hô với bạn bè tao mày, nói tục, chửi bậy tranh giành nhau hoặc đánh nhau. Vì vậy trong từng tiết dạy tôi luôn để ý cách trả lời của các em nếu chưa lịch sự, văn minh thì tôi nhắc nhở uốn nắn kịp thời, dạy cho các em những giá trị đạo đức cơ bản của con người, lòng nhân ái, tính trung thực, lòng tự trọng, nếp nghĩ và lối sống lành mạnh, trọng đạo lý, sống có kỷ luật.
II. Kỹ năng hợp tác và chia sẻ:
* Dạy cho học sinh kỹ năng hợp tác và chia sẻ là dạy cho các em biết lắng nghe người khác; trợ giúp và tôn trọng lẫn nhau; có trách nhiệm với công việc được giao.
* Việc dạy cho các em kỹ năng hợp tác và chia sẻ sẽ giúp các em hình thành nhân cách, biết hợp tác, đoàn kết và giúp đỡ bạn bè trong mọi hoạt động, cùng nhau hoàn thành những nhiệm vụ mà giáo viên đưa ra; đồng thời giúp các em có những kỹ năng thích ứng và xử lý tình huống, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động chung của tập thể, cộng đồng.
* Môn vật lý là môn khoa học thực nghiệm. Vì vậy trong các tiết thực hành giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng thực hành, kỹ năng hợp tác nhóm và chia sẻ giữa các thành viên trong nhóm, trong lớp; giáo viên cũng có thể phân công các em học sinh học tốt giúp đỡ, kèm cặp cho các bạn học yếu hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài thực hành“nghiệm lại lực đẩy ác si mét”.
+ Tôi phân chia lớp 8A(25 HS) thành 5 nhóm, mỗi nhóm cử ra một nhóm trưởng. Phân dụng cụ thí nghiệm cho các nhóm.
+ Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm:
Để đo lực đẩy ác si mét, nhóm trưởng phân công:
- Một bạn treo lực kế vào giá, sau đó treo quả nặng vào lực kế.
- Một bạn đọc số chỉ của lực kế.
- Một bạn làm thư kí, ghi lại kết quả của thí nghiệm.
- Các bạn còn lại theo dõi, hỗ trợ các bạn trong nhóm khi cần.
+ Sau khi các nhóm thực hành xong thống nhất kết quả, viết báo cáo nạp về cô giáo.
Sau khi tiết học kết thúc giáo viên nhắc nhở: Kết quả thí nghiệm mà các nhóm thu được là kết quả của sự hợp tác, chia sẻ và giúp đỡ nhau của tất cả các thành viên trong nhóm. Qua đó giáo dục cho các em cần chia sẻ với nhau những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống từ đó giúp đỡ nhau, đoàn kết với nhau và cùng nhau phấn đấu vươn lên trong học tập và rèn luyện.
III. Nhóm kỹ năng sống tự phục vụ, chăm sóc bản thân
Bài
Nội dung
Kỹ năng cần giáo dục
Sự cân bằng lực. Quán tính.
II.Quán tính
2. Vận dụng
C8. Dùng khái niệm quán tính để giải thích các hiện tượng sau:
a. Khi ô tô đột ngột rẽ phải, hành khách trên xe bị nghiêng về phía bên trái. 
c. Bút tắc mực ta vẩy mạnh bút có thể viết lại được
d. Khi cán búa lỏng, ta có thể làm chặt lại bằng cách gõ mạnh đuôi cán xuống đất.
- Khi đi xe đạp chúng ta không nên phanh gấp.
- Khi bút tắc mực ta vẩy mạnh bút có thể viết lại được.
- Khi cán búa, cán dao, cán quốc lỏng, ta có thể làm chặt lại bằng cách gõ mạnh đuôi cán xuống đất. 
Với cách giải thích tương tự, có thể giáo dục cho học sinh kỹ năng: Khi áo quần không may bị bụi bẩn, các em giũ mạnh thì áo quần sẽ sạch hơn.
Lực ma sát
II. Lực ma sát trong đời sống và trong kĩ thuật
1. Lực ma sát có thể có hại 
C6. Nêu tác hại của lực ma sát và các biện pháp làm giảm lực ma sát trong các trường hợp vẽ ở hình 6.3 trang 22 SGK
2. Lực ma sát có thể có ích
C7. Quan sát các trường hợp vẽ ở hình 6.4a SGK và tưởng tượng nếu không có lực ma sát thì sẽ xảy ra hiện tượng gì? Hãy tìm cách tăng lực ma sát trong trường hợp này.
- Khi đi xe đạp phải thường xuyên tra dầu mỡ vào xích xe để làm giảm ma sát khi đó đạp xe sẽ thấy nhẹ hơn.
- Khi bảng ướt thì ma sát giữa phấn và bảng nhỏ do đó phấn khó bám bảng, vậy nên khi giặt giẻ lau bảng các em phải vắt giẻ khô để khi lau bảng không bị ướt, tăng ma sát giữa phấn và bảng, khi đó phấn dễ bám vào bảng hơn.
Áp suất khí quyển
III. Vận dụng:
? Lúc cất cánh và trước khi hạ cánh người phục vụ trên máy bay phân phát cho hành khách kẹo để nhằm mục đích gì?
GV hướng dẫn HS giải thích 
- Khi các em đi máy bay nên chủ động mang theo kẹo, bánh. Khi máy bay cất cánh hoặc chuẩn bị hạ cánh các em sẽ ăn kẹo để giảm bớt hiện tượng đau nhức tai.
Các chất được cấu tạo như thế nào?
III. Vận dung :
? Tại sao săm xe đạp sau khi được bơm căng mặc dù đã vặn van thật chặt, nhưng để lâu ngày vẫn bị xẹp ?
- Khi đi xe đạp các em thường xuyên kiểm tra săm xe, nếu thấy săm xe bị xẹp bớt các em cần bơm ngay nếu không săm sẽ dễ bị rách.
Nguyên tử, phân tử chuyển động hay đứng yên?
IV.Vận dụng
? Quan sát hình vẽ và nêu ý kiến của em về việc hút thuốc lá ?
- Không được hút thuốc lá.
- Không ở gần nơi những người hút thuốc lá.
- Vận động người thân, bạn bè nói không với thuốc lá để bảo vệ sức khỏe của bản thân và cộng đồng.
Dẫn nhiệt
III. Vận dụng
C9. Tại sao nồi xoong thường làm bằng kim loại, còn bát đĩa thường làm bằng sứ ?
C10. Tại sao về mùa đông mặc nhiều áo mỏng ấm hơn mặc một áo dày ?
- Khi dùng bát Inox để đựng canh các em chú ý để canh nguội bớt mới đổ vào bát, nếu canh còn nóng đổ vào bát sẽ dễ bị bỏng.
- Khi nấu thức ăn, quai của nồi thường không có lớp nhựa cách nhiệt bọc bên ngoài nên các em phải dùng khăn bắc nồi để bắc nồi ra nếu không sẽ bị bỏng.
- Về mùa đông vào những ngày giá rét các em nên mặc nhiều áo để giữ ấm cho cơ thể, đảm bảo sức khỏe cho bản thân.
Đối lưu – Bức xạ nhiệt
III. Vận dụng :
Thể hiện ở giáo án minh họa phần sau
Thể hiện ở giáo án minh họa phần sau
Như vậy, thông qua các tiết dạy trên, tôi đã giáo dục cho các em kỹ năng tự phục vụ, chăm sóc bản thân, qua đó giáo dục và hình thành cho các em tính tự lập, tự thích ứng, tự xử lý các tình huống thường gặp, từ đó giúp các em tự tin hơn, vững vàng hơn khi gặp các tình huống xảy ra trong cuộc sống.
IV. Kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào việc giải thích các hiện tượng trong thực tế đời sống, học tập và sản xuất:
Bài
Nội dung
Kỹ năng cần giáo dục
Sự cân bằng lực - Quán tính
III. Vận dụng
?Tại sao khi nhổ cỏ dại không nên dứt quá đột ngột, kể cả khi rễ cỏ bám trong đất không được chắc?
- HS vận dụng kiến thức về quán tính giải thích được: Khi nhổ cỏ quá đột ngột thì rễ cỏ chưa kịp chuyển động thân đã bị đứt. Rễ vẫn nằm trong đất, cỏ dại sẽ nhanh chóng mọc lại.
Áp suất khí quyển
III. Vận dụng
?Tại sao nắp ấm pha trà thường có một lỗ nhỏ? 
?Vì sao nhà du hành vũ trụ khi đi ra khoảng không vũ trụ phải mặc một bộ áo giáp?
HS vận dụng kiến thức về áp suất khí quyển giải thích được: 
- Nắp ấm pha trà thường có một lỗ nhỏ để rót nước dễ dàng. Vì có lỗ nhỏ trên nắp nên khí trong ấm thông với khí quyển, áp suất khí trong ấm cộng với áp suất nước trong ấm lớn hơn áp suất khí quyển nên nước chảy ra dễ dàng hơn.
- Khi ở trong lòng khí quyển áp suất của máu và không khí trong cơ thể luôn cân bằng với áp suất khí quyển. Khi con người từ tàu vũ trụ bước ra khoảng không, áp suất từ bên ngoài tác dụng lên cơ thể rất nhỏ, có thể xấp xỉ bằng 0. Con người không thể chịu đựng được sự phá vỡ cân bằng áp suất như vậy. Áo giáp của nhà du hành vũ trụ có tác dụng giữ cho áp suất bên trong áo giáp có độ lớn xấp xỉ bằng áp suất khí quyển bình thường trên mặt đất.
Các chất được cấu tạo như thế nào
III. Vận dụng:
C3. Thả một cục đường vào một cốc nước rồi khuấy lên, đường tan và nước có vị ngọt?
- HS vận dụng kiến thức giữa các phân tử có khoảng cách giải thích được: Khi khuấy lên, các phân tử đường xen lẫn vào khoảng cách giữa các phân tử nước cũng như các phân tử nước xen vào khoảng cách giữa các phân tử đường nên nước có vị ngọt.
Nguyên tử, phân tử chuyển động hay đứng yên
IV. Vận dụng
? Tại sao đường tan vào nước nóng nhanh hơn vào
nước lạnh ?
- HS căn cứ vào: nhiệt độ của vật càng cao thì các nguyên tử, phân tử cấu tạo nên vật chuyển động càng nhanh để giải thích được: đường tan vào nước nóng nhanh hơn vào nước lạnh do ở nước nóng các phân tử chuyển động nhanh hơn.
Dẫn nhiệt
II. Tính dẫn nhiệt của các chất:
? Tại sao khi rót nước sôi vào cốc thủy tinh thì cốc dày dễ vỡ hơn cốc mỏng?
? Muốn cốc khỏi bị vỡ khi rót nước sôi vào thì làm thế nào?
- HS dựa vào tính dẫn nhiệt của các chất giải thích được: Thủy tinh dẫn nhiệt kém nên k

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_long_ghep_giao_duc_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_thong_qua.doc