SKKN Lồng ghép “Giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh qua bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình – GDCD 10 THPT
Theo quy luật, thế giới tự nhiên không ngừng vận động và phát triển. Con người cũng vậy kể từ khi chào đời, cơ thể ngày ngày lớn lên, trí tuệ ngày càng thêm sâu sắc. Có một khoảng thời gian đặc biệt mà con người có những bước nhảy vọt về cả thể chất lẫn trí tuệ, tâm sinh lý - khoảng thời gian ấy chính là giai đoạn tuổi vị thành niên, lứa tuổi vị thành niên là một giai đoạn ngắn nhưng lại ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển toàn diện của cuộc đời mỗi người.
Các em học sinh trung học đang ở độ tuổi vị thành niên có nhiều bỡ ngỡ trước sự thay đổi của bản thân khi bước vào tuổi dậy thì và có nhiều tò mò, thắc mắc về vấn đề giới tính nhưng lại không được giải đáp thỏa đáng. Mặt khác, sự tác động mạnh mẽ của môi trường xã hội hiện nay, đó là sự phát triển một cách ồ ạt các hệ thống truyền tải thông tin như internet, điện thoại di động đã làm ảnh hưởng đến những quan điểm, nhận thức về quan hệ tình dục, tình yêu, hôn nhân ở thanh thiếu niên. Nhiều thanh thiếu niên bắt đầu quan hệ tình dục trong khi chưa hiểu biết đúng đắn về sức khỏe sinh sản. Sự thiếu hiểu biết này có thể dẫn đến những hậu quả trầm trọng: mang thai ngoài ý muốn dẫn đến nạo phá thai ở độ tuổi vị thành niên,sinh con và nuôi con khi độ tuổi còn quá trẻ, làm dở dang việc học tập; mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và đời sống tinh thần sau này.
Cung cấp thông tin về giới tính, giáo dục sức khỏe sinh sản cho vị thành niên là việc làm cần thiết nhưng đến nay vẫn còn một số người cho đó là vấn đề tế nhị, nếu đem vào bài giảng, tức là “ vẽ đường cho hươu chạy”, bên cạnh đó, ở nhà trường còn rất hiếm có giáo viên nào chuyên trách về vấn đề này. Ở gia đình, nhiều phụ huynh không đủ trình độ hoặc e dè trước vấn đề giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho con em mình.
Đứng trước thực trạng đó, đặt ra vấn đề: Việc giáo dục giới tính thuộc về ai? Phải bắt đầu từ độ tuổi nào là hợp lý? Thực hiện dưới hình thức nào và tổ chức ra sao? Những câu hỏi đó cho đến nay vẫn còn rất mới mặc dù có rất nhiều chuyên gia đã nghiên cứu, triển khai nhưng nhìn chung hiệu quả chưa cao.
Chính vì vậy là một giáo viên giảng dạy môn GDCD ở trường THPT, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Lồng ghép “Giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh qua bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình – GDCD 10 THPT” làm đề tài SKKN với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc giáo dục giới tính, giáo dục đạo đức, hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ.
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Theo quy luật, thế giới tự nhiên không ngừng vận động và phát triển. Con người cũng vậy kể từ khi chào đời, cơ thể ngày ngày lớn lên, trí tuệ ngày càng thêm sâu sắc. Có một khoảng thời gian đặc biệt mà con người có những bước nhảy vọt về cả thể chất lẫn trí tuệ, tâm sinh lý - khoảng thời gian ấy chính là giai đoạn tuổi vị thành niên, lứa tuổi vị thành niên là một giai đoạn ngắn nhưng lại ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển toàn diện của cuộc đời mỗi người. Các em học sinh trung học đang ở độ tuổi vị thành niên có nhiều bỡ ngỡ trước sự thay đổi của bản thân khi bước vào tuổi dậy thì và có nhiều tò mò, thắc mắc về vấn đề giới tính nhưng lại không được giải đáp thỏa đáng. Mặt khác, sự tác động mạnh mẽ của môi trường xã hội hiện nay, đó là sự phát triển một cách ồ ạt các hệ thống truyền tải thông tin như internet, điện thoại di độngđã làm ảnh hưởng đến những quan điểm, nhận thức về quan hệ tình dục, tình yêu, hôn nhân ở thanh thiếu niên. Nhiều thanh thiếu niên bắt đầu quan hệ tình dục trong khi chưa hiểu biết đúng đắn về sức khỏe sinh sản. Sự thiếu hiểu biết này có thể dẫn đến những hậu quả trầm trọng: mang thai ngoài ý muốn dẫn đến nạo phá thai ở độ tuổi vị thành niên,sinh con và nuôi con khi độ tuổi còn quá trẻ, làm dở dang việc học tập; mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và đời sống tinh thần sau này. Cung cấp thông tin về giới tính, giáo dục sức khỏe sinh sản cho vị thành niên là việc làm cần thiết nhưng đến nay vẫn còn một số người cho đó là vấn đề tế nhị, nếu đem vào bài giảng, tức là “ vẽ đường cho hươu chạy”, bên cạnh đó, ở nhà trường còn rất hiếm có giáo viên nào chuyên trách về vấn đề này. Ở gia đình, nhiều phụ huynh không đủ trình độ hoặc e dè trước vấn đề giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho con em mình. Đứng trước thực trạng đó, đặt ra vấn đề: Việc giáo dục giới tính thuộc về ai? Phải bắt đầu từ độ tuổi nào là hợp lý? Thực hiện dưới hình thức nào và tổ chức ra sao? Những câu hỏi đó cho đến nay vẫn còn rất mới mặc dù có rất nhiều chuyên gia đã nghiên cứu, triển khai nhưng nhìn chung hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy là một giáo viên giảng dạy môn GDCD ở trường THPT, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Lồng ghép “Giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh qua bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình – GDCD 10 THPT” làm đề tài SKKN với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc giáo dục giới tính, giáo dục đạo đức, hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ. 2. Mục đích nghiên cứu Trong đề tài này tôi đã vận dụng kiến thức sinh học, kiến thức đạo đức, những thông tin, số liệu, các tình huống thực tiễn, có liên quan để vận dụng trong quá trình giảng dạy bài 12. Từ nội dung bài học, học sinh tự rút ra những hiểu biết về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên nhằm nâng cao hiệu quả trong học tập và ứng dụng trong cuộc sống. 3. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi của đề tài, tôi vận dụng những kinh nghiệm sống của bản thân, kết hợp nghiên cứu các số liệu, thông tin, sự kiện để vận dụng trong quá trình giảng dạy bài 12 “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình – GDCD 10” đạt hiệu quả cao hơn. 4. Thời gian nghiên cứu Từ nhiều năm học và triển khai áp dụng trong năm học 2018- 2019 ở các lớp 10A1, 10A2, 10A4, 10A6 thông qua giảng dạy Bài 12 “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình – GDCD 10” 5. Phương pháp nghiên cứu. Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, kết hợp quan điểm và phương pháp giáo dục hiện đại, đề tài chủ yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học sau đây: - Phương pháp lô gíc và lịch sử - Phương pháp thực nghiệm sư phạm - Phương pháp điều tra xã hội học - Phương pháp phân tích và tổng hợp để đảm bảo tính khách quan và chính xác vấn đề mà đề tài đặt ra. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.1.1. Giới tính, giáo dục giới tính là gì? * Giới tính: Trong những điều cần biết để giáo dục giới tính cho con người nêu rõ: “Giới tính là sự khác biệt về phương diện sinh học con trai và con gái (nói cách khác đó là sự khác biệt về giống đực và giống cái), ví dụ con gái có thể mang thai và sinh đẻ được còn con trai thì không. Sự phân biệt giới tính và giới đã rõ ràng, nhưng trong thực tế, để nhấn mạnh bản chất xã hội con người, thuật ngữ “Giới tính” thường được dùng theo nghĩa rộng hơn, bao hàm cả “Giới tính” và “Giới”. * Giáo dục giới tính: Là việc cung cấp các thông tin về sự phát triển của cơ thể, giới tính, tình dục, và các mối quan hệ, cùng với xây dựng kỹ năng để giúp các bạn trẻ giao tiếp và đưa ra quyết định liên quan đến sức khỏe tình dục. Giáo dục giới tính dành cho học sinh ở mọi cấp học, với các kiến thức thích hợp với nền văn hóa và sự phát triển của học sinh. Giáo dục giới tính sẽ bao gồm thông tin về tuổi dậy thì, biện pháp tránh thai và bao cao su, các mối quan hệ, phòng chống bạo lực tình dục, hình ảnh cơ thể, giới tính và khuynh hướng tình dục. Giáo dục giới tính cần đến với tuổi mới lớn bằng những bài học đầy đủ nhất về kiến thức ngăn ngừa mang thai ngoài ý muốn và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhưng giáo dục giới tính cũng cần phải tôn trọng các quyền lợi cơ bản của giới trẻ và cần truyền đạt một cách trung thực. 2.1.2 Khái niệm về tuổi vị thành niên, sức khỏe sinh sản vị thành niên * Tuổi vị thành niên: Là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang người lớn,đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ và phức tạp nhất của cuộc đời mỗi con người. Biểu hiện của giai đoạn này là xảy ra đồng thời một loạt những thay đổi bao gồm sự chín muồi về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh về tâm lý và các quan hệ xã hội, bước đầu hình thành nhân cách. Nhưng đây cũng là giai đoạn nảy sinh nhiều rối nhiễu về tâm lý nhất so với các lứa tuổi khác. Theo tổ chức y tế thế giới, vị thành niên nằm trong độ tuổi từ 10->19. Cũng có một số nước vị thành niên là từ 13->20 hoặc từ 15->24 tuổi. * Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên: Là trạng thái khỏe mạnh, hoàn hảo về thể chất, tinh thần và xã hội trong tất cả mọi khía cạnh liên quan đến hệ thống sinh sản, chức năng sinh sản và quá trình sinh sản.Sức khỏe sinh sản bao gồm nhiều khía cạnh trong đó có cả khía cạnh liên quan đến sức khỏe tình dục. Sức khỏe sinh sản có tầm quan trọng đặc biệt đối với cả nam và nữ. Ở lứa tuổi học sinh THPT: Từ 16 tuổi đến 18 tuổi. Đây là giai đoạn các em đã phát triển từ tuổi thiếu niên sang tuổi thanh niên. Do đó, chúng ta cần khuyến khích các em phát huy những điểm lợi thế và biết hạn chế những điều bất lợi có thể có ở lứa tuổi này nghĩa là giúp các em gìn giữ tình bạn khác giới trong sáng, tránh những sai lầm do ngộ nhận tình cảm thích nhau là tình yêu, hoặc vội vàng nâng cấp tình bạn khác giới thành tình yêu. Giúp các em sống lành mạnh và có trách nhiệm với tương lai, hạnh phúc của chính mình. Quan trọng là giúp các em biết tin vào giá trị của nhân phẩm, biết xấu hổ khi quan hệ giới tính không trong sáng. Tuổi dậy thì chính là giai đoạn đặc biệt trong quá trình phát triển của một con người. Đó là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành người lớn và được đặc trưng bởi sự thay đổi mạnh mẽ về cả thể chất, chức năng, tinh thần, hành vi, tình cảm, đánh dấu giai đoạn “hình thành giới tính” của con người và có khả năng hòa nhập cộng đồng, lúc này, các hoóc môn sinh dục ở nam và nữ bắt đầu hoạt động mạnh hơn, độ chín về sinh dục cũng cao hơn. Ở nữ giới, kinh nguyệt là dấu hiệu của tuổi dậy thì báo hiệu mở đầu của thời kỳ sinh sản. Các dấu hiệu trước khi có kinh nguyệt như tăng nhanh về chiều cao, cân nặng và vú phát triển. Còn ở nam giới biểu hiện dậy thì sau nữ giới từ 2 đến 3 năm, tinh hoàn bắt đầu hoạt động nội tiết và ngoại tiết, hiện tượng cương dương vật và xuất tinh cho thấy chức năng sinh sản của nam giới đã bắt đầu. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Kết quả nhận biết của các em về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên khi tôi chưa áp dụng dạy học theo định hướng tích hợp giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên ở các lớp 10A1, 10A2, 10A4, 10A6 năm học: 2017 - 2018 với tổng số 170 học sinh như sau: Số thứ tự Câu hỏi Trả lời Biết Không biết 1 Em có biết về kiến thức giới tính – sức khỏe sinh sản vị thành niên không? 30/170 (17,64%) 140/170 (82,35%) 2 Các bệnh không có khả năng lây truyền qua đường tình dục là: ADIS, lậu, giang mai. Viêm gan B. 20/170 (11,77%) 150/170 (88,23%) 3 Mang thai ở tuổi vị thành niên là tốt cho sức khỏe vì tránh được hiện tượng sinh con mắc hội chứng Đao. 10/170 (5,89%) 160/170 (94,11%) 5 Nếu quan hệ tình dục sớm dẫn đến có thai ngoài ý muốn thì có thể sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến thể chất lẫn tinh thần của bạn gái. 35/170 (20,6%) 135/170 (79,4%) 6 Dùng bao cao su không những tránh thai mà còn tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục. 32/170 (18,8%) 138/170 (81,2%) 7 Quan hệ tình dục đúng vào ngày rụng trứng mới có thể thụ thai. 20/170 (11,77%) 150/170 (88,23%) 10 Em có biết về tuổi trưởng thành sinh dục của nam giới và nữ giới 70/170 (26,5%) 125/170 (73,5%) Từ kết qua tổng hợp cho thấy: Đa số các em đều không biết về giới tính, tuổi trưởng thành, về quan hệ tình dục, mang thai ở tuổi vị thành niên có ảnh hưởng gì tới sức khỏe, các cách tránh thai an toàn........ 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3. Chuẩn bị: * Giáo viên: - Yêu cầu học sinh đọc, tìm hiểu các kiến thức liên quan, cách lí giải biện chứng vấn đề. - Hình ảnh tĩnh, hình ảnh động, tư liệu liên quan đến bài học - Dự kiến các tình huống có thể xảy ra - Một số câu hỏi trắc nghiệm và bài tập tình huống * Học sinh: Tìm hiểu các kiến thức về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên... 2.3.2. Tích hợp giới tính – sức khỏe sinh sản vị thành niên vào các phần trong bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình như sau: - Tình yêu là gì? - Một số điều nên tránh trong tình yêu của nam nữ thanh niên 2.3.3. Bài giảng: Ngày soạn: 01/02/2019 Tiết PPCT: 22 Bài 12: CÔNG DÂN VỚI TÌNH YÊU, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ( 2 TIẾT) I. MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Về kiến thức. - Học sinh nắm được thế nào là tình yêu, thế nào là tình yêu chân chính, hôn nhân và gia đình. - Biết được các đặc trưng tốt đẹp, tiến bộ của chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay. - Nêu được các chức năng cơ bản của gia đình. - Hiểu được các mối quan hệ gia đình và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình. - Hiểu được mối quan hệ giữa tình yêu, hôn nhân và gia đình. 2. Về kĩ năng. - Biết nhận xét dánh giá một số quan niệm sai lầm về tình yêu, hôn nhân và gia đình. - Thực hiện tốt trách nhiệm của bản thân đối với gia đình. 3. Về thái độ. - Đồng tình, ủng hộ các quan điểm đúng về tình yêu, hôn nhân và gia đình. - Yêu quí gia đình II. CÁC NĂNG LỰC HƯỚNG TỚI HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Ở HỌC SINH Năng lực hợp tác, năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng CNTT và truyền thông.... III. PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG TIỆN VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC: - Thuyết trình, vấn đáp, sử dựng các kỷ thuật dạy học tích cực, tạo tình huống, trực quan, - Tranh, ảnh, sơ đồ, giấy khổ to, Bài tập tình huống GDCD 10... - Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn GDCD THPT; SGK, SGV. Có thể sử dụng vi tính, máy chiếu Projector. IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức. (Dự kiến 1p) 2. Kiểm tra bài cũ. (Dự kiến 3p): Em hãy trình bày thế nào là nhân phẩm và danh dự? Lấy ví dụ? 3. Dạy bài mới. (Dự kiến 38p) Giới thiệu bài mới (Dự kiến 1p) Vấn đề tình yêu, hôn nhân và gia đình là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống mỗi con người nói riêng cũng như sự ổn định của đất nước nói chúng. Vậy hiểu thế nào cho đúng, cho đủ về vấn đề này thì chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu bài hôm nay. Bài 12: CÔNG DÂN VỚI TÌNH YÊU, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Tiết 1 Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh *Hoạt động1: (Dự kiến 12p): Thảo luận lớp tìm hiểu thế nào là tình yêu. *Mục tiêu: Học sinh hiểu đươc thế nào là tình yêu *Cách tiến hành: Giáo viên lồng ghép nội dung giáo dục giới tính, giáo dục sức khẻo sinh sản vị thành niên vào phần học này Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm cho các nhóm thảo luận để tìm hiểu khái niệm tình yêu Giáo viên trình chiếu slide yêu cầu học sinh đọc các câu ca dao, tục ngữ, câu thơ sau: Câu hỏi thảo luận: Nhóm 1+ 2: ?Tình yêu được biểu hiện như thế nào qua các câu ca dao, đoạn thơ trên: Nhóm 3+4: ?Hãy nêu một vài quan niệm về tình yêu mà em biết? Giáo viên: Nhận xét kết quả thảo luận của học sinh, sau đó khái quát: Tình yêu là một dạng tình cảm đặc biệt của con người, mỗi mối tình đều có sắc thái riêng và rất đa dạng, tuy nhiên điểm chung nhất của tình yêu đó chính là sự dung động quyến luyến sâu sắc giữa hai người khác giới...Họ có nhu cầu gần gũi gắn bó với nhau, sẵn sàng hiến dâng cho nhau cuộc sống của mình. Vậy tình yêu là gì? Giáo viên đặt câu hỏi tiếp: ? Em hiểu như thế nào là sẵn sàng hiến dâng cho nhau cuộc sống cuả mình? ?Ở tuổi học sinh trung học phổ thông các em có sự phát triển về giới ntn? đã nên yêu chưa? Vì sao? Ở phần này giáo viên tích hợp giáo dục giới tính cho học sinh biết về sự phát triển về sinh lý của mình: Giáo viên nhận xét câu trả lời của học sinh sau đó nêu vấn đề, kết hợp với trình chiếu slide: Ở tuổi các em các hoóc môn sinh dục ở nam và nữ bắt đầu hoạt động mạnh hơn, độ chín về sinh dục cũng cao hơn. Ở nữ giới, kinh nguyệt là dấu hiệu của tuổi dậy thì báo hiệu mở đầu của thời kỳ sinh sản. Các dấu hiệu trước khi có kinh nguyệt như tăng nhanh về chiều cao, cân nặng và vú phát triển. Còn ở nam giới biểu hiện dậy thì sau nữ giới từ 2 đến 3 năm, tinh hoàn bắt đầu hoạt động nội tiết và ngoại tiết, hiện tượng cương dương vật và xuất tinh cho thấy chức năng sinh sản của nam giới đã bắt đầu..... ( Buồng trứng và trứng) Sau khi các em đã nắm rõ về giới của mình giáo viên tiếp tục phân tích: Như vậy nếu các em hiểu tự nguyện sống vì nhau và sẵn sàng hiến dâng cho nhau cuộc sống của mình là cho tất cả và nhận tất cả, vượt khỏi giới hạn giữa hai người khác giới, có quan hệ tình dục thì dẫn tới bạn nữ có nguy cơ có thai, sinh con ngoài ý muốn, ngoài ra còn mặc các căn bệnh như HIV, lậu.... Ở trong bài này tự nguyện hiến dâng cho nhau cuộc sống của mình là sống vì nhau sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, tự nguyện xác định nghĩa vụ của mình đối với người mình yêu.... Là học sinh chúng ta không nên yêu vì đang trong tuồi ăn học, tâm sinh lí các em phát triển chưa toàn diện... dễ nhầm lẫn giữa tình bạn và tình yêu.... Giáo viên tiếp tục nêu vấn đề: vậy có quan niệm cho rằng: “Tình yêu là chuyện riêng tư của mỗi người, không liên quan gì đến người khác”. Theo em quan niệm đó đúng hay sai? Vì sao? Giáo viên có thể đưa ra gợi ý: -Tình yêu là chuyện riêng của mỗi người đúng hay sai -Tình yêu bắt nguồn từ đâu? Bị chi phối bởi những vấn đề gì? -Tình yêu luôn đặt ra những vấn đề gì cho xã hội? Giáo viên khái quát lại; con người luôn tồn tại trong các mối quan hệ xã hội, vì vậy mặc dù tình yêu là tình cảm cá nhân nhưng cũng không nên cho rằng đó hoàn toàn là việc riêng của mỗi con người mà tình yêu còn mang tính xã hội. Mặc dù xã hội không can thiệp đến tình yêu cá nhân nhưng có trách nhiệm hướng dẫn mọi người có quan niệm đúng đắn về tình yêu, đặc biệt ở những người bắt đầu bước sang tuổi vị thành niên. Ở mỗi xã hội sẽ có những quan niệm khác nhau về tình yêu: Xã hội phong kiến “ thọ thọ bất tương thân” không được gần nhau. Việc hôn nhân: “ môn đăng hộ đối” “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” Trong xã hội hiện nay tình yêu trước hết phải là một tình yêu chân chính. Vậy tình yêu chân chính là gì? Tình yêu chân chính có các biểu hiện như thế nào? *Hoạt động 2: (Dự kiến 13p): Đọc hợp tác tìm hiểu thế nào là tình yêu chân chính Mục tiêu: Học sinh hiểu đươc tình yêu chân chính là gì *Cách tiến hành: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc phần thế nào là tình yêu chân chính? Giáo viên nêu vấn đề: Tình yêu mang tính xã hội cho nên mỗi chế độ xã hội lại mang những quan niệm khác nhau về tình yêu. Chúng ta ai cũng hướng đến một tình yêu chân chính. Giáo viên hỏi học sinh: Qua nội dung các em đã được đọc và trao đổi. Vậy, em hiểu thế nào là một tình yêu chân chính? Tình yêu chân chính có những biểu hiện như thế nào? Để trả lời được câu hỏi này giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh thảo luận các tình huống sau: Tình huống 1: Gia đình bà Hà và ông Nam là bạn bè thân thiết từ lâu. Mỵ - con bà Hà là một cô gái xinh đẹp, học giỏi. Ông Nam muốn My yêu con trai mình. Gia đình ông Nam và con trai tìm mọi cách để có được tình cảm của Mỵ Tình huống 2: Trong một đợt giao lưu với đơn vị bộ đội địa phương, Hương đã thầm yêu Tài một chiến sỹ thông tin của đơn vị. Gia đình, bạn bè đã chê bai Hương vì sao bỏ những chàng trai có địa vị xã hội, có trình độ học vấn, tiền của để yêu một người lính Tình huống 3: Mạnh và Lan chơi thân với nhau từ khi còn học THPT. Hai người thường xuyên quan tâm giúp đỡ nhau trong cuộc sống và học tập. Cả hai đều được vào Đại học và đến năm cuối của trường đại học, họ chính thức tuyên bố với bạn bè về tình yêu của họ. Câu hỏi: 1, Trong 3 tình huống trên em đồng tình và không đồng tình với tình huống nào? Vì sao? 2, Tình yêu chân chính là gì? Những biểu hiện của một tình yêu chân chính? Giáo viên thu phiếu học tập, chốt lại các ý kiến dẫn dắt để học sinh hiểu thế nào là một tình yêu chân chính: Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng lành mạnh, phù hợp với các quan niệm đạo đức tiến bộ. Biểu hiện của tình yêu chân chính: + Có tình cảm chân thực, sự quyến luyến, gắn bó giữa một nam và một nữ + Có sự quan tâm sâu sắc đến nhau, không vụ lợi + Có sự chân thành, tin cậy và tôn trọng từ cả hai phía + Có lòng vị tha và sự thông cảm *Hoạt động 3: (Dự kiến 12p): Thảo luận lớp tìm hiểu một số điều nên tránh trong tình yêu nam nữ thanh niên. *Mục tiêu: Học sinh hiểu đươc một số điều nên tránh trong tình yêu nam nữ thanh niên. *Cách tiến hành: Giáo viên lồng ghép nội dung giáo dục giới tính, giáo dục sức khẻo sinh sản vị thành niên vào phần học này. Giáo viên trình chiếu slide yêu cầu học sinh quan sát các hình ảnh sau: Giáo viên nêu vấn đề: * Hiện nay tình trạng học sinh yêu quá sớm đang là một vấn đề đáng quan tâm và là mối quan tâm của các phụ huynh. Yêu quá sớm nên dẫn đến việc học tập chây lười và kết qủa học tập giảm sút một cách nghiêm trọng, mang thai ngoài ý muốn, kéo theo đó là tỷ lệ nạo phá thai ngày càng tăng cao. Theo thống kê của Vụ sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ y tế năm 2016, tính riêng trong hệ thống các bệnh viện công lập thuộc 63 tỉnh thành phố có đến 265.536 ca nạo phá thai, trong đó số ca phá thai ở tuổi vị thành niên, thanh niên chiếm đến xấp xỉ 4600 ca - Giáo viên nêu câu hỏi: Hãy nêu suy nghĩ của em về những hình ảnh, thông tin trên? - Giáo viên nêu câu hỏi: Vậy, theo em ở lứa tuổi thanh niên nên tránh những điều gì trong tình yêu? Giáo viên gợi ý: +Theo các em có nên yêu sớm không? Vì sao? +Có quan niệm cho rằng: “yêu 50 chọn 10 lấy 1” theo em tại sao lại có quan niệm đó? Đúng hay không? Vì sao? +Quan niệm của các bạn trẻ bây giờ “yêu là hiến dâng cho nhau tất cả” em có suy nghĩ như thế nào về quan niệm này? Giáo viên khẳng định: Tình yêu là một tình cảm thiêng liêng, là đề tài muôn thuở, từ lâu đã có biết bao tác phẩm văn học, nghệ thuật nói về tình yêu làm rung động hàng triệu triệu con tim. Các em là người học sinh đang ở độ tuổi trưởng thành cần có trách nhiệm như thế nào trước dạng tình cảm đặc biệt này của con người để mỗi người có được tình yêu trong sáng, đẹp hơn. 1.Tình yêu a, Tình yêu là gì? Học sinh thảo luận, các nhóm cử đại diện trình bày kết quả thảo luận 1, Những biểu hiện của tình yêu qua những câu ca dao, đoạn thơ: - Nhớ nhung, quyến luyến, cuốn hút. - Tình cảm tha thiết, mong muốn được gần gũi với nhau - Sẵn sàng vượt qua mọi thử thách để đến với nhau. 2, Vài quan niệm về tình yêu: - Yêu là chết trong lòng một ít. - Là sự dung cảm của hai người khác giới mong muôn được sống bên nhau. - Tình yêu là ánh sáng ban mai đem cho con người hạnh phúc Học sinh trả lời: Tình yêu là sự rung cảm
Tài liệu đính kèm:
- skkn_long_ghep_giao_duc_gioi_tinh_suc_khoe_sinh_san_vi_thanh.doc