SKKN Lồng ghép giải thích các hiện tượng thực tế trong giảng dạy môn Hóa Học lớp 9 bậc THCS

SKKN Lồng ghép giải thích các hiện tượng thực tế trong giảng dạy môn Hóa Học lớp 9 bậc THCS

Định hướng chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí lực, thể chất, thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.

 Để đạt các mục tiêu đó thì khâu đột phá là đổi mới phương pháp giáo dục từ lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực”. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo: tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử lí thông tin, Học sinh tự mình hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. “Dạy” là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh: cách tự học, sáng tạo, hợp tác, dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai giúp học sinh nhận thức được sự cần thiết, bổ ích cho bản thân và cho sự phát triển xã hội.

 Với bộ môn Hóa học, định hướng đổi mới phương pháp dạy học được coi trọng thể hiện ở sự quan tâm, tạo mọi điều kiện để học sinh trở thành chủ thể hoạt động sáng tạo trong giờ học, tự chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng bằng nhiều phương pháp.

 

doc 24 trang thuychi01 29867
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Lồng ghép giải thích các hiện tượng thực tế trong giảng dạy môn Hóa Học lớp 9 bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	I. PHẦN MỞ ĐẦU
	1. Lý do chọn đề tài.
	Định hướng chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí lực, thể chất, thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
 	Để đạt các mục tiêu đó thì khâu đột phá là đổi mới phương pháp giáo dục từ lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực”. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo: tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử lí thông tin, Học sinh tự mình hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. “Dạy” là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh: cách tự học, sáng tạo, hợp tác, dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai giúp học sinh nhận thức được sự cần thiết, bổ ích cho bản thân và cho sự phát triển xã hội.
	Với bộ môn Hóa học, định hướng đổi mới phương pháp dạy học được coi trọng thể hiện ở sự quan tâm, tạo mọi điều kiện để học sinh trở thành chủ thể hoạt động sáng tạo trong giờ học, tự chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng bằng nhiều phương pháp.
	- Khai thác đặc thù của bộ môn tạo ra hình thức hoạt động đa dạng.
	- Đổi mới hoạt động học tập của học sinh, tăng thời gian dành cho HS hoạt động trong giờ học
	- Tăng mức độ hoạt động trí lực, chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh như thường xuyên sử dụng tổng hợp các phương pháp dạy học, tích hợp, liên môn.
	Đổi mới phương pháp dạy học bước đầu đã đem lại hiệu quả cao về chất lượng. Tuy nhiên việc lĩnh hội kiến thức Hoá học của học sinh là hết sức khó khăn, vì Hóa học là một môn học mới lạ đối với HS ở THCS, mà khối lượng kiến thức học sinh cần lĩnh hội tương đối nhiều. Phần lớn các bài gồm những khái niệm mới, rất trừu tượng, khô cứng và khó hiểu nên học sinh dễ nhàm chán . Những học sinh khả năng tư duy không cao có xu hướng sợ học bộ môn , đặc biệt khó khăn hơn với học sinh của các trường thiếu thốn về cơ sở ứng dụng vào thực tiễn . Do đó, giáo viên cần tìm ra phương pháp dạy học gây được hứng thú học tập bộ môn giúp các em chủ động lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gượng ép là điều cần quan tâm. 
 	 Đối với đơn vị trường THCS Hoằng Kim về cơ sở vật chất liên quan đến bộ môn Hóa Học đã được trang bị khá đầy đủ( có phòng Hóa thí nghiệm, máy chiếu, dụng cụ , hóa chất...) nên là một trong những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sự yêu thích của học sinh, giúp học sinh nâng cao hơn về kĩ năng vận dụng kiến thức trong thực tiễn , tạo niềm tin, niềm vui và hứng thú trong các em.
 	Kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy Hóa học tôi nhận thấy rằng: Học sinh thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học giáo viên luôn có định hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa với thực tiễn đời sống hàng ngày. Rất nhiều kiến thức Hóa học có thể liên hệ được với các hiện tượng tự nhiên xung quanh chúng ta , từ đó cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hoá học, là giáo viên bộ môn hoá học thì cần hình thành ở các em học sinh một kỹ năng cơ bản, phổ thông, thói quen học tập và làm việc khoa học để làm nền tảng cho việc giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động. Có những phẩm chất cần thiết như cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ, chính xác, yêu chân lí khoa học, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội có thể hoà hợp với môi trường thiên nhiên, chuẩn bị cho học sinh học lên cao và đi vào cuộc sống lao động.
Xuất phát từ những thực tế đó và một số kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn Hóa học, tôi thấy để có chất lượng giáo dục bộ môn Hóa học cao tôi chọn đề tài: “Lồng ghép giải thích các hiện tượng thực tế trong giảng dạy môn Hóa Học lớp 9 bậc THCS”. 
	2. Mục đích nghiên cứu.
Xây dựng hệ thống một số hiện tượng Hóa học thực tiễn cho từng bài giảng trong chương trình Hóa học lớp 9.
	Vận dụng hệ thống các hiện tượng đã xây dựng để dạy học chương trình Hóa 9 nhằm giáo dục ý thức và tăng hứng thú học tập bộ môn cho học sinh.
	3. Đối tượng, khách thể và phạm vi giới hạn đề tài nghiên cứu.
	3.1. Đối tượng nghiên cứu:
	Quá trình dạy học môn hóa học 9 ở trường THCS.
	Các phương pháp dạy học tích cực, phương pháp tích hợp môi trường, kĩ năng vận dụng kiến thức trong học tập và liên hệ thực tiễn của bộ môn Hóa học.
	3.2. Khách thể nghiên cứu:
Học sinh lớp 9A, 9B trường THCS Hoằng Kim.
3.3. Phạm vi giới hạn đề tài nghiên cứu
	Các bài dạy trong chương trình Hóa học lớp 9.
	4. Phương pháp nghiên cứu.
	- Nghiên cứu luật giáo dục về đổi mới chương trình, phương pháp dạy học
	- Nghiên cứu tại liệu về lí luận dạy học , phương pháp dạy bộ môn Hóa
	- Nghiên cứu thực trạng dạy Hóa ở trường THCS Hoằng Kim 
	- Liên hệ hiện tượng Hóa học thực tiễn áp dụng ở một số bài dạy:
+ Nêu vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự học và thảo luận theo nhóm học tập.
+ Giáo viên giải đáp thắc mắc, tổng kết.
	II. PHẦN NỘI DUNG
 	1. Cơ sở lí luận. 
	Đối với học sinh THCS các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. Người giáo viên dạy Hóa học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh, đồng thời lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với thực tiễn và đời sống hàng ngày để các em thấy môn Hóa học rất gần gũi với các em. Giáo viên phải tổ chức các hoạt động tự lực học tập sau:
+ Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh theo hướng tích hợp 
- Cho học sinh thấy được mối qua hệ hữu cơ của các bộ môn khoa học với nhau như: Hóa, Lý, Sinh, Địa, GDCD...từ đó làm tăng khả năng tiếp thu, hiểu biết kiến thức sâu, rộng hơn.
- Khi dạy kiến thức Hóa bất kể ở đơn vị kiến thức nào có liên quan đến môn học khác Giáo viên cần đưa ra các câu hỏi dạng mở theo hướng tích hợp để học sinh chủ động tìm hiểu, trả lời và thấy được mối quan hệ giữa các môn.
Ví dụ : Tại sao càng lên cao không khí càng loãng?
Kiến thức Vật lý: do lực hút của Trái Đất
Kiến thức Hóa Học: Do khí O2 nặng hơn không khí ( d O2/KK = 32/ 29) nên tập chung ở dưới , càng lên cao thì càng tập chung các khí nhẹ hơn như H2... 
- Giáo viên phải biết chọn những vấn đề quan trọng, mấu chốt để lồng ghép các nội dung khác nhau: bảo vệ môi trường, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe...
Đây là hướng đi mà ngành giáo dục đã và đang tiếp tục đẩy mạnh ở những năm gần đây.
+ Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh cách thiết lập mối liên hệ các nội dung với thực tiễn
- Học sinh thấy hứng thú sẽ dễ dàng tiếp thu ghi nhớ bài học nếu giáo viên có sự liên hệ giữa kiến thức SGK với thực tiễn
+ Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh thông qua tình huống giả định bằng hiện tượng thực tế.
Nếu dạy học mà chỉ áp dụng một kiểu dạy sẽ gây nhàm chán. Vậy nên cần áp dụng nhiều phương pháp lồng ghép với nhau, trong đó giáo dục bằng hình thức đưa ra các tình huống giả định và vấn đáp để giúp học sinh chủ động 
Trong quá trình dạy học, dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên học sinh thực hiện các hoạt động chủ yếu theo một quy trình sau:
Thu thập thông tin: thông qua việc tự làm thí nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm do giáo viên biểu diễn, quan sát hiện tượng tự nhiên, đọc tài liệu, xem tranh ảnh, ôn lại những kiến thức đã học, học sinh sẽ thu được những thông tin cần thiết về các hiện tượng Hóa học cần học.
Xử lí thông tin: thông qua một hệ thống câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học sinh căn cứ vào thông tin đã thu thập để rút ra những kết luận cần thiết.
	Vận dụng: Dựa vào kết luận đã rút ra từ bài học, học sinh vận dụng vào thực tiễn để hiểu sâu bài hơn.
Tuy nhiên tùy thuộc vào từng bài giảng cụ thể giáo viên có thể lồng ghép giải thích các hiện tượng trong thực tế vào bài dạy của mình cho phù hợp như:
* Lồng ghép vào phần mở bài: 
Ví dụ: Trước khi vào giảng dạy bài: Sự ăn mòn kim loại và bảo vệ kim loại không bị ăn mòn, giáo viên có thể nêu vấn đề vào bài với câu hỏi sau: Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần dần đồ vật không dùng được ? 
* Lồng ghép trong quá trình giảng dạy: 
Ví dụ: Khi dạy xong phần tính chất vật lí của axit sunfuric giáo viên có thể cho học sinh trả lời câu hỏi: 
Vì sao không nên rót nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể rót từ từ axit sunfuric đậm đặc vào nước ?
Hay : lồng ghép vào tính chất hóa học, ứng dung, điều chế ...các chất. Đồng thời lồng ghép tích hợp vào nội dung bài dạy như: biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường... 
* Lồng ghép khi kết thúc bài học
Ví dụ: Khi giảng dạy xong bài; phân bón hóa học giáo viên có thể cho học sinh giải thích câu ca dao sau:
 “ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
 Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
* Liên hệ với địa phương ( nếu có) để thấy rõ và gần gũi hơn
	2. Thực trạng của vấn đề.
Khi chuẩn bị thực hiện đề tài này, học sinh còn rất mơ hồ trong việc nắm bắt các kiến thức, việc nắm bắt kiến thức bộ môn Hóa học của các em chỉ ở mức độ thấp đó là nắm các khái niệm, định luật Học sinh chưa biết và vận dụng chưa đi sâu vào quá trình giải thích, giải quyết các vấn đề nên học sinh hay nhàm chán. Những học sinh có khả năng tư duy không cao thì có xu hướng sợ học bộ môn này. Đặc biệt là trường chưa có phòng thực hành bộ môn nên các tiết thực hành chỉ dừng lại ở mức độ thí nghiệm biểu diễn của giáo viên vì vậy không tạo được mục tiêu thúc đẩy ý thức học tập cũng như sự yêu thích bộ môn cho học sinh.
Để áp dụng đề tài vào trong giảng dạy tôi đã thực hiện một số hoạt động sau:
- Điều tra về mức độ, thái độ của học sinh về nội dung của đề tài: điều kiện học tập của học sinh. Cho học sinh mượn tài liệu để photo và hướng dẫn học sinh tìm hiểu.
- Xác định mục tiêu, chọn lọc các trường hợp cần nhận biết, xây dựng nguyên tắc áp dụng cho mỗi trường hợp, lựa chọn các câu hỏi cần thiết liên quan đến từng nội dung bài và dự đoán các tình huống có thể xảy ra khi thực hiện.
- Sưu tầm tài liệu và trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp.
3. Giải pháp, biện pháp vận dụng đề tài vào thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện tôi đã lựa chọn những nội dung, hiện tượng trong thực tế có liên quan đến các bài học trong chương trình Hóa học 9 và phân bố chúng vào cụ thể từng bài học như sau:
Chương I: CÁC LOẠI HỢP CHẤT VÔ CƠ .
Bài 1: Tính chất hóa học của Oxit, khái quát về sự phân loại oxit.
 	Ví dụ 1: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ? ( Trích tài liệu [5] )
Giải thích: - Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2,Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác là các oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.
 2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
 2NO + O2 → 2NO2
 4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Trong đó H2SO4 là nguyên nhân chính gây ra mưa axit.  
	- Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO3):
 CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
 CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O 
Áp dụng: Nêu vấn đề khi vào học bài mới.	
Bài 2: Một số oxit quan trọng
Ví dụ 1: Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt, nước vôi như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người và động vật. Do đó cần tránh xa hố đang tôi vôi hoặc sau khi tôi vôi ít nhất 2 ngày ? ( Trích tài liệu [1] )
Giải thích: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit: 
CaO + H2O Ca(OH)2
	Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo cả những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra nhiều nên nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố vôi 
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài 
Bài 3: Tính chất hóa học của axit.
Ví dụ 1: Vì sao nước rau muống đang xanh khi vắt chanh vào thì chuyển sang màu đỏ ? ( Trích tài liệu [4] )
Giải thích: Có một số chất hóa học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của dung dịch thay đổi khi độ pH của dung dịch thay đổi. Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị màu này, trong chanh có 7% axit xitric. Vắt chanh vào nước rau làm dung dịch có tính axit, do đó làm thay đổi màu của nước rau. Khi chưa vắt chanh nước rau muống màu xanh là chứa chất kiềm.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của axit khi tác dụng với chất chỉ thị màu.
 	Ví dụ 2: Vì sao khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay ?
 ( Trích tài liệu [4] )
	Giải thích: Vì chất chua (tức axit hữu cơ) có trong trái cây sẽ kết hợp với những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chảy sẽ tấn công các kẽ răng và gây tổn thương cho lợi. Bởi vậy người ta đợi đến khi nước bọt trung hòa lượng axit trong trái cây nhất là táo, cam, nho, chanh
	 Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của axit khi tác dụng với bazơ tạo phản ứng trung hòa 
Bài 4: Một số axit quan trọng.
Ví dụ 1: Vì sao không nên rót nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể rót từ từ axit sunfuric đậm đặc vào nước ? ( Trích tài liệu [1] )
Giải thích: Khi axit sunfuric tan vào nước sẽ tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Axit sunfuric đặc giống như dầu và nặng hơn trong nước. Nếu bạn cho nước vào axit, nước sẽ nổi trên bề mặt axit. Tại vị trí nước tiếp xúc với axit nhiệt độ cao làm cho nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm.
Một chú ý thêm là khi pha loãng axit sunfuric bạn luôn luôn nhớ là “ phải rót từ từ ” axit vào nước và không nên pha trong các bình thủy tinh. Bởi vì thủy tinh sẽ dễ vở khi tăng nhiệt độ khi pha.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời về cách pha loãng axit H2SO4 khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc.
Bài 7: Tính chất hóa học của bazơ.
Ví dụ 1: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau? 
Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến, nhện (và một số côn trùng khác) có axit hữu cơ tên là axit formic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau. (Trích tài liệu [4] )
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của bazơ 
Bài 8: Một số Bazơ quan trọng.
Ví dụ 1: Tại sao khi quét vôi tôi lên tường thì lát sau vôi khô và cứng lại ?   Giải thích: Vôi là canxi hiđroxit, là chất tan ít trong nước nên khi cho 
nước vào tạo dung dịch trắng đục, khi tô lên tường thì Ca(OH)2 nhanh chóng
 khô và cứng lại vì tác dụng với CO2 trong không khí theo phương trình:
	Ca(OH)2 + CO2 CaCO3 + H2O ( Trích tài liệu [1] )
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của canxi hiđroxit.	
	Ví dụ 2: Tại sao ăn trầu phải có đủ cau, trầu và vôi, nhất là không thể thiếu vôi ? ( Trích tài liệu [4] )
	Giải thích: Trong lá trầu có chứa tinh dầu, trong hạt cau có chứa một chất gọi là arecolin, chất này có tính độc. Không có vôi miếng trầu không thể chuyển sang màu đỏ, vôi là chất kiềm khi tác dụng với arecolin làm chất này chuyển thành arecaidin không độc mà có tác dụng gây hưng phấn, ấm áp làm cho da mặt hồng hào, môi đỏ thắm, chống cảm cúm, diệt khuẩn làm sạch miệng, làm chặt chân răng.
 Áp dụng: Có thể đặt câu hỏi trên cho phần tích hợp bảo vệ sức khỏe .
Bài 9: Tính chất hóa học của muối. 
Ví dụ 1: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này? ( Trích tài liệu [5] )
Giải thích: Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học : Ca(HCO3)2 CaCO3 + CO2 + H2O
 Mg(HCO3)2 MgCO3 + CO2 + H2O
CaCO3, MgCO3 sinh ra đóng cặn. Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH3COOH 5%) và rượu, đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
 ( Trích tài liệu [3] )
Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng:
 NaHCO3 + HCl NaCl + H2O + CO2
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học. 
Bài 10: Một số muối quan trọng.
Ví dụ 1: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn (NaCl)? ( Trích tài liệu [4] )
Giải thích: Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100oC. Do nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học. 
	Ví dụ 2: Tại sao phải ăn muối iot ? ( Trích từ tài liệu [5] )
 	Giải thích: Trong cơ thể con người có tồn tại một lượng iot tập trung ở tuyến giáp trạng. Ở người trưởng thành lượng iot này khoảng 20-50mg. Hàng ngày ta phải bổ sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn muối iot. Iôt có trong muối ăn dạng KI và KIO3. Nếu lượng iot không cung cấp đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp trạng sưng to thành bướu cổ, nặng hơn là đần độn, vô sinh và các chứng bệnh khác.
 	Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi khi kết thúc bài nhằm giúp cho học sinh hiểu được ích lợi của việc ăn muối iot và tuyên truyền cho cộng đồng. 
Bài 11: Phân bón hóa học.
Ví dụ 1: Vì sao người ta dùng tro bếp để bón cho cây ? ( Trích tài liệu [4] )
Giải thích: Trong tro bếp có chứa muối K2CO3, cung cấp nguyên tố K
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Cao dao Việt Nam có câu: 
 “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
 Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” 
 Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?(Trích tài liệu [1] )
Giải thích: Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: 
Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. 
Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động: 
 N2 + O2 Tia lửa điện 2 NO
	Sau đó: 	 2NO + O2 2NO2
	Khí NO2 sẽ tan trong nước mưa: 
 NO2 + H2O + O2 HNO3
 HNO3 H+ + NO3+
Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6−7 kg N cho mỗi mẫu đất.
 Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học. 
Bài 12: Mối liên hệ giữa các hợp chất vô cơ.
Ví dụ 1: Tại sao để cải tạo đất ở một số ruộng chua người ta thường bón bột vôi ? ( Trích tài liệu [5] )
Giải thích: Thành phần của bột vôi gồm CaO và Ca(OH)2 và một số ít CaCO3. Ở ruộng chua có chứa axit, pH < 7, nên sẽ có phản ứng giữa axit với CaO, Ca(OH)2 và một ít CaCO3 làm giảm tính axit nên ruộng sẽ hết chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Chương II: KIM LOẠI
Bài 15: Tính chất vật lí của kim loại.
Ví dụ 1: Vì sao nhôm lại được sử dụng làm dây dẫn điện cao thế? Còn đồng lại được sử dụng làm dây dẫn điện trong nhà? ( Trích tài liệu [5] )
Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 8,96g/cm3) Do đó, nếu như dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm.Vì vậy ở trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện bằng 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_long_ghep_giai_thich_cac_hien_tuong_thuc_te_trong_giang.doc