Sáng kiến kinh nghiệm Giải thích các hiện tượng trong thực tế tạo hứng thú học tập bộ môn Hóa học Lớp 9

Sáng kiến kinh nghiệm Giải thích các hiện tượng trong thực tế tạo hứng thú học tập bộ môn Hóa học Lớp 9

Môn hoá học là một trong những môn học khó, nếu không có bài giảng

và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ

động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh

không muốn học hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học.

Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục: Chưa đặt

ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt

cùng một cách dạy, một bài giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không

ít. Do phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm

nhận, truyền thụ tri thức một chiều. Giáo viên nên là người hướng dẫn học sinh

chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức hoá học.

 Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên

hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm

cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề

cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó

với thực tiễn hàng ngày. Khi học xong bất kỳ vấn đề gì học sinh thấy có ứng

dụng cho thực tế cuộc sống thì các em sẽ chú ý hơn, hứng thú hơn. Từ đó các

em sẽ tìm tòi, chủ động tư duy để tìm hiểu, để nhớ hơn. Do đó mỗi bài học

giáo viên nên cố gắng đưa ra một số ứng dụng thực tiễn sẽ lôi cuốn được sự

chú ý của học sinh hơn.

 Giáo viên cũng cần chú ý khi sử dụng các hiện tượng hóa học thực tiễn

nên khéo léo trong giải thích vấn đề, vì cấp độ bộ môn hóa ở THCS chưa tìm

hiểu sâu quá trình diễn biến của sự việc hay hiện tượng. Do đó giáo viên phải

biết lựa chọn cách giải thích cho phù hợp.

 

docx 24 trang hoathepmc36 26/02/2022 7443
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải thích các hiện tượng trong thực tế tạo hứng thú học tập bộ môn Hóa học Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
Cơ sở lí luận.
Hoá học trong trường trung học cơ sở giữ một vai trò quan trọng trong 
việc hình thành và phát triển tri thức của học sinh. Mục đích của môn học là 
giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những 
tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành... 
của hoá học. Học hoá là để hiểu, để giải thích được các vấn đề thực tiễn thông 
qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các 
phương trình phản ứng hoá học... Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy 
tính sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hoá 
học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm ảnh hưởng đến đời sống, 
tinh thần của con người... 
	Để đạt được mục đích của học hoá học trong chương trình thì giáo viên 
dạy hoá học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những 
hiểu biết về hoá học, người giáo viên dạy hoá học còn phải có phương pháp 
truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hoá học của học sinh. Đó 
là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Để hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học”. 
	Để đạt các mục tiêu đó thì đổi mới phương pháp giáo dục từ lối dạy học 
truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực”. Làm 
cho “học” là quá trình kiến tạo, tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử lí 
thông tin,Học sinh tự mình hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. 
“Dạy” là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh: cách tự học, 
sáng tạo, hợp tác,dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách 
học. Học để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương laigiúp 
học sinh nhận thức được những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân và 
cho sự phát triển xã hội. 
 Xuất phát từ những thực tế và một số kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn hóa học, tôi thấy học sinh sẽ hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học giáo viên luôn có định hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa với thực tiễn đời sống hàng ngày. Rất nhiều kiến thức hóa học có thể liên hệ được với các hiện tượng tự nhiên xung quanh chúng ta. Vì vậy để có chất lượng giáo dục bộ môn hóa học cao, người giáo viên ngoài phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm các hiện tượng hóa học thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS, tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập bộ môn. Từ những lí do đó tôi chọn sáng kiến: “Giải thích các hiện tượng trong thực tế tạo hứng thú học tập bộ môn hóa học 9”, áp dụng cho chương trình hóa học lớp 9 cấp THCS.
2. Phương pháp tiếp cận.
	Nghiên cứu cơ sở lí luận việc đổi mới chương trình giáo dục môn hóa, 
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. 
	Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên hóa học 9. Mục 
tiêu chương trình hóa 9 để xây dựng hệ thống một số hiện tượng hóa học phát 
huy tính tích cực, chủ động tư duy cho học sinh nhằm tăng hứng thú, say mê 
học tập bộ môn. 
	Nghiên cứu trên cơ sở các tài liệu: Luật giáo dục về đổi mới chương 
trình, phương pháp dạy học tích cực bộ môn hóa 
	Nghiên cứu thực trạng dạy học hóa học 9 ở trường THCS Tân Pheo Huyện Đà Bắc - Tỉnh Hòa Bình. Tổng hợp các hiện tượng hóa học thực tiễn áp dụng cho một số bài dạy cụ thể ở hóa học 9. 
Mục tiêu sáng kiến.
 Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất các các quốc gia trên thế giới đều 
coi là chiến lược của dân tộc mình .Vì thế đại hội lần IX, Đảng cộng sản Việt 
Nam trong nghị quyết ghi rõ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai 
của một dân tộc, một quốc gia phải nhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó. 
Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển 
như vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo 
dục vô cùng to lớn. Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà 
còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống mang tính 
giáo dục. 
 Đối với học sinh THCS các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp 
cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn 
nào mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. 
Người giáo viên dạy hóa học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của 
học sinh, từ đó để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.Trong đó phương 
pháp dạy học bằng cách khai thác các hiện tượng hóa học thực tiễn trong tự 
nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy môn hóa học rất gần gũi với 
các em. Giáo viên phải tổ chức được các hoạt động học tập cho học sinh theo 
những cơ sở lí luận sau: 
 Với sự bùng nổ của các thành tựu khoa học trong các lĩnh vực: Vật lí, Sinh học, Hóa họcnên chương trình đào tạo cũng được phân chia thành các mảng kiến thức tương đối tách rời, cô lập với những khái niệm chi tiết khó nhớ. Xu hướng hiện nay trong dạy học hóa học nói riêng và trong các lĩnh vực khoa học nói chung, người ta cố gắng trình bày cho học sinh thấy mối quan hệ hữu cơ của các lĩnh vực không những của hóa học với nhau mà còn giữa các ngành 
khoa học khác nhau như: sinh học, hóa học, toán học, vật lí, 
 Tuy nhiên để dạy theo cách trên, người giáo viên phải biết chọn những 
vấn đề quan trọng, mấu chốt nhất của chương trình để giảng dạy. Ngoài ra giáo 
viên phải chọn lựa các hiện tượng thực tiễn phù hợp với nội dung bài mới tăng 
hứng thú, say mê học tập, tìm hiểu bộ môn. Nếu người giáo viên kết hợp tốt phương pháp dạy học tích hợp sử dụng các hiện tượng thực tiễn thì ngoài việc giúp học sinh chủ động, tích cực say mê học tập mà còn lồng ghép được các nội dung khác nhau như: bảo vệ môi trường, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người thông qua các kiến thức thực tiễn đó. Đây cũng là hướng đi mà ngành giáo dục đang đẩy mạnh trong các năm gần đây. 
	Trước tình hình học hoá học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và 
đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để 
đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về 
môi trường, về tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không mất đi tính cộng 
đồng trên toàn thế giới, những vấn đề có tính chất cập nhật và mới mẻ, đảm 
bảo: tính khoa học – hiện đại, cơ bản, tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng 
hợp; tính hệ thống sư phạm. 
	Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả những 
quan điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi 
lượng kiến thức không đồng nhất . 
	Môn hoá học là một trong những môn học khó, nếu không có bài giảng 
và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ 
động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh 
không muốn học hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học. 
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục: Chưa đặt 
ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt 
cùng một cách dạy, một bài giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không 
ít. Do phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm 
nhận, truyền thụ tri thức một chiều. Giáo viên nên là người hướng dẫn học sinh 
chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức hoá học. 
 Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên 
hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm 
cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề 
cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó 
với thực tiễn hàng ngày. Khi học xong bất kỳ vấn đề gì học sinh thấy có ứng 
dụng cho thực tế cuộc sống thì các em sẽ chú ý hơn, hứng thú hơn. Từ đó các 
em sẽ tìm tòi, chủ động tư duy để tìm hiểu, để nhớ hơn. Do đó mỗi bài học 
giáo viên nên cố gắng đưa ra một số ứng dụng thực tiễn sẽ lôi cuốn được sự 
chú ý của học sinh hơn. 
	Giáo viên cũng cần chú ý khi sử dụng các hiện tượng hóa học thực tiễn 
nên khéo léo trong giải thích vấn đề, vì cấp độ bộ môn hóa ở THCS chưa tìm 
hiểu sâu quá trình diễn biến của sự việc hay hiện tượng. Do đó giáo viên phải 
biết lựa chọn cách giải thích cho phù hợp. 
CHƯƠNG II. MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
 Hóa học là một môn học hoàn toàn mới lạ đối với HS ở THCS, mà khối lượng kiến thức học sinh cần lĩnh hội tương đối nhiều.Phần lớn các bài gồm những khái niệm mới, rất trừu tượng, khó hiểu. Do đó, giáo viên cần tìm ra phương pháp dạy học gây được hứng thú học tập bộ môn giúp các em chủ động lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gượng ép là điều cần quan tâm. Khi HS có hứng thú, niềm say mê với môn Hóa sẽ giúp HS phát huy được năng lực tư duy, khả năng tự học và óc sáng tạo. Để từ đó nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình dạy học của giáo viên.
Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
2.1. Những điểm mới của sáng kiến.
Đối với học sinh THCS các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có kết quả cao  hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. Người giáo viên dạy hóa học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh, trong đó phương pháp dạy học bằng cách lồng ghép giải thích các hiện tượng hóa học thực tiễn trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy môn hóa học rất gần gũi với các em.
Trong quá trình dạy học, dựa vào sự hướng dẫn  của giáo viên học sinh thực hiện các hoạt động chủ yếu theo một quy trình sau:
Thu thập thông tin: thông qua việc tự làm thí  nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm do giáo  viên biểu diễn, quan sát hiện tượng tự nhiên, đọc tài liệu, xem tranh ảnh, ôn lại những kiến thức đã học, học sinh sẽ thu được những thông tin cần thiết về  các hiện tượng hóa học cần học.
Xử lí thông tin: thông qua một hệ thống câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học sinh căn cứ  vào thông tin đã  thu thập để rút ra những kết luận cần thiết.
Vận dụng: Dựa vào kết luận đã rút ra từ bài học,  học sinh vận dụng vào thực tiễn để hiểu sâu bài hơn.
Tuy nhiên tùy thuộc vào từng bài giảng cụ thể giáo viên  có thể lồng ghép giải thích các hiện tượng trong thực tế vào bài dạy của mình cho phù  hợp.
2.2. Cách thức thực hiện.
* Lồng ghép vào phần mở bài:
Ví dụ: Trước khi vào giảng dạy bài: Sự ăn mòn kim loại và bảo vệ kim loại không bị ăn mòn, giáo viên có thể nêu vấn đề vào bài với câu hỏi sau: Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần dần đồ vật không dùng được ?
* Lồng ghép trong quá trình giảng dạy:                                                                   
Ví dụ: Khi dạy xong phần tính chất vật lí của axit sunfuric giáo viên có thể cho học sinh trả lời câu hỏi:
Vì sao không nên rót nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể rót từ từ axit sunfuric đậm đặc vào nước ?
* Lồng ghép khi kết thúc bài học
Ví dụ: Khi giảng dạy xong bài; phân bón hóa học giáo viên có thể cho học sinh giải thích câu ca dao sau:
“ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
                   Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Trong quá trình thực hiện tôi đã lựa chọn những  nội dung, hiện tượng trong thực tế có liên quan đến các bài học trong chương trình  hóa học 9 và phân bố chúng vào cụ thể từng bài  học như sau:
Bài 1: Tính chất hóa học của Oxit, khái quát về sự phân loại oxit.
Ví dụ 1: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?
Giải thích: – Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2,Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác là các oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.
PTHH :
2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Trong đó  H2SO4 là nguyên nhân chính gây ra mưa axit.
– Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO3):    
  PTHH :            
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Áp dụng: Nêu vấn đề khi  vào học bài mới.
Bài 2: Một số oxit  quan trọng
Ví dụ 1: Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt, nước vôi như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người và động vật. Do đó cần tránh xa hố đang tôi vôi hoặc sau khi tôi vôi ít nhất 2 ngày ?
Giải thích: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit:
PTHH : CaO  +  H2O  → Ca(OH)2
Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo cả những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra nhiều nên nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố vôi để tránh rơi xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài.
Bài 3: Tính chất hóa học của axit.
Ví dụ 1: Vì sao nước rau muống đang xanh khi vắt chanh vào thì chuyển sang màu đỏ ?
Giải thích: Có một số chất hóa học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của dung dịch thay đổi khi độ pH của dung dịch thay đổi. Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị màu này, trong chanh có 7% axit xitric. Vắt chanh vào nước rau làm dung dịch có tính axit, do đó làm thay đổi màu của nước rau. Khi chưa vắt chanh nước rau muống màu xanh  là chứa chất kiềm.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của axit khi tác dụng với chất chỉ thị màu.
Bài 4: Một số axit quan trọng.
Ví dụ 1:  Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
Giải thích: Axit clohiđric có vai trò rất quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể. Trong dịch dạ dày của người có axit clohiđric với nồng độ khoảng chừng 0,0001 đến 0,001 mol/l (có độ pH tương ứng với là 4 và 3). Ngoài việc hòa tan các muối khó tan, nó còn là chất xúc tác cho các phản ứng phân hủy các chất gluxit (chất đường, bột) và chất protein (đạm) thành các chất đơn giản hơn để cơ thể có thể hấp thụ được.
Lượng axit trong dịch dạ dày nhỏ hơn hay lớn hơn mức bình thường đều gây bệnh cho người. Khi trong dịch dạ dày có nồng độ axit nhỏ hơn 0,0001 mol/l (pH>4,5) người ta mắc bệnh khó tiêu, ngược lại nồng độ axit lớn hơn 0,001 mol/l (pH<3,5) người ta mắc bệnh ợ chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này trong phần ứng dụng của axit clohiđric.
Ví dụ 2: Vì sao không nên rót nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể rót từ từ axit sunfuric đậm đặc vào nước ?
Giải thích: Khi axit sunfuric tan vào nước sẽ tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Axit sunfuric đặc giống như dầu và nặng hơn trong nước. Nếu bạn cho nước vào axit, nước sẽ nổi trên bề mặt axit. Tại vị trí nước tiếp xúc với axit nhiệt độ cao làm cho nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm.
Trái lại khi bạn cho axit sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác: axit sunfuric đặc nặng hơn nước, nếu cho từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống đáy nước, sau đó phân bố đều trong toàn bộ dung dịch. Như vậy nhiệt lượng sinh ra được phân bố đều trong dung dịch, nhiệt độ sẽ tăng từ từ không làm cho nước sôi lên một cách quá nhanh.
Một chú ý thêm là khi pha loãng axit sunfuric bạn luôn luôn nhớ là “ phải rót từ từ ” axit vào nước và không nên pha trong các bình thủy tinh. Bởi vì thủy tinh sẽ dễ vở khi tăng nhiệt độ khi pha.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời về cách pha loãng axit H2SO4 khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc.
Bài 7: Tính chất hóa học của bazơ.
Ví dụ 1: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?
Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến, nhện (và một số côn trùng  khác) có axit hữu cơ tên là axit formic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của bazơ
Bài 8: Một số Bazơ quan trọng.
Ví dụ 1: Tại sao khi tô vôi lên tường thì lát sau vôi khô và cứng lại ?
Giải thích: Vôi là canxi hiđroxit, là chất tan ít trong nước nên khi cho
nước vào
 tạo dung dịch trắng đục, khi tô lên tường thì Ca(OH)2 nhanh chóng
khô và cứng lại vì tác dụng với CO2 trong không khí theo phương trình:
Ca(OH)2  +  CO2   → CaCO3 + H2O
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của canxi hiđroxit.
Bài 9: Tính chất hóa học của muối.
Ví dụ 1: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này?
Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học :
Ca(HCO3)2        CaCO3   +     CO2   +   H2O
Mg(HCO3)2       MgCO3   +     CO2   +   H2O
CaCO3, MgCO3 sinh ra đóng cặn. Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH3COOH 5%) và rượu, đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng:
NaHCO3  +   HCl          NaCl  + H2O + CO2
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 10:  Một số muối quan trọng.
Ví dụ 1: Vì sao muối thô dễ bị chảy nước ?
Giải thích: Muối ăn có thành phần chính là natri clorua, ngoài ra còn có ít muối khác như magie clorua , Magie clorua rất ưa nước, nên nó hấp thụ nước trong không khí và rất dễ tan trong nước. Muối sản xuất càng thô sơ thì càng dễ
bị chảy nước khi để ngoài không khí.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần trạng thái tự nhiên.
Ví dụ 2: Muối ở biển có từ đâu ?
Giải thích: Các con sông, suối, Các dòng nước trên lục địa đều chảy về biển, đại dương và hoà tan mọi vật thể có thể hoà tan. Do quá trình bay hơi, các nguyên tố, hợp chất tụ tập trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian, trong đó  nhiều nhất là NaCl, MgCl2 và một số ít muối khác tạo nên muối biển.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần trạng thái tự nhiên.
Ví dụ 3: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn (NaCl)?
Giải thích: Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100oC. Do nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 11: Phân bón hóa học.
Ví dụ 1: Vì sao người ta dùng tro bếp để bón cho cây ?
Giải thích: Trong tro bếp có chứa muối K2CO3, cung cấp nguyên tố kali cho cây.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Cao dao Việt Nam có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?
Giải thích: Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa:
Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này.
Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
N2   +    O2        2 NO
Sau đó:   2NO   +     O2      →     2NO2
Khí NO2 sẽ tan trong nước mưa:
NO2  +  H2O  + O2    →     HNO3
HNO3    →     H+    +    NO3+
Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6−7 kg N cho mỗi mẫu đất.
 	Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 12: Mối liên hệ giữa các hợp chất vô cơ.
Ví dụ 1: Tại sao để cải tạo đất ở một số ruộng chua người ta thường bón bột vôi ?
Giải thích: Thàn

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_giai_thich_cac_hien_tuong_trong_thuc_t.docx