SKKN Kinh nghiệm giúp trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi khám phá khoa học

SKKN Kinh nghiệm giúp trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi khám phá khoa học

“Thế giới ở xung quanh ta thật bao la và rộng lớn, có biết bao điều kì lạ, mà sao ta chẳng biêt bao nhiêu”. Câu nói đó cũng là cái nhìn và suy nghĩ của mọi người về một thế giới xung quanh chúng ta. Nó bao gồm tất cả các sự vật, hiện tượng, cây cỏ, hoa lá, con vật, các vấn đề về tự nhiên và xã hội. Chúng ta không thể đi đến tất cả mọi nơi, không thể tận mắt nhìn thấy tất cả các sự vật, hiện tượng, nhưng con người luôn có khát vọng muốn được khám phá, tìm hiêu thế giới xung quanh. Nhu cầu tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh của con người đã xuất hiện ngay từ khi còn nhỏ.Từ khi trẻ ra đời đã muốn ngắm nhìn xung quanh, thế giới bên ngoài thật là lạ lẫm đối với trẻ, trẻ đã hứng thú đưa mắt nhìn theo những đồ vật có màu sắc sặc sỡ như màu xanh - đỏ treo trước mắt và tò mò đưa tay với, Càng lớn, nhu cầu đó càng tăng lên bằng việc trẻ bắt chước giọng điệu người lớn (thích tự mặc quần áo, đi dép của người lớn ), làm những công việc của người lớn, hay với trẻ 5-6 tuổi kinh nghiệm sống đã có, trẻ liên tục hỏi những câu hỏi về thế giới xung quanh như: “Tại sao lại có trời ? gió ở đâu đến? con sinh ra như thế nào? ai đấy?, cái gì đây? Làm gì đấy? để làm gì?.” Chính là lúc nhu cầu khám phá thế giới xung quanh của trẻ càng cao. Nhưng vì trẻ nhỏ chưa có vốn sống, vốn kinh nghiệm, sự trải nghiệm còn ít, trẻ chưa tự khám phá về thế giới xung quanh nên người lớn phải giúp đỡ trẻ, phải tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia vào các hoạt động nhằm cho trẻ làm quen, khám phá về môi trường xung quanh. Khi trẻ được làm quen với thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ tích lũy được kiến thức, kỹ năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ phát triển về các mặt: Đức - Trí - Thể - Mĩ - Lao động. Thông qua việc tổ chức cho trẻ được hoạt động khám phá, trẻ sẽ được phát triển toàn diện các mặt, nhân cách được hình thành và phát triển. Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục nói chung và Giáo dục mầm non nói riêng. Bởi vậy, việc trẻ được khám phá, được làm quen với môi trường xung quanh là một việc làm thiết thực, rất cần thiết. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lí, nhận thức của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ Mẫu giáo lớn nói riêng, các nhà tâm lí học, giáo dục học đã chỉ ra rằng, quá trình tìm hiểu môi trường xung quanh được tổ chức mang tính chất khám phá, trải nghiệm theo phương thức “học bằng chơi thông qua chơi mà học”, là phù hợp đối với trẻ.

docx 18 trang thuychi01 13404
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm giúp trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi khám phá khoa học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
NỘI DUNG
Trang
MỤC LỤC
1
I. MỞ ĐẦU
2
1.Lý do chọn đề tài
2
2.Mục đích nghiên cứu
2
3.Đối tượng nghiên cứu
3
4.Phương pháp nghiên cứu
3
II.NỘI DUNG
3
1.Cơ sở lý luận
3
2.Thực trạng của vấn đề
4
3.Giải pháp thực hiện
5
4. Hiệu quả đạt được
15
III. KẾT LUẬN
15
1. Kết luận.
15
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
“Thế giới ở xung quanh ta thật bao la và rộng lớn, có biết bao điều kì lạ, mà sao ta chẳng biêt bao nhiêu”. Câu nói đó cũng là cái nhìn và suy nghĩ của mọi người về một thế giới xung quanh chúng ta. Nó bao gồm tất cả các sự vật, hiện tượng, cây cỏ, hoa lá, con vật, các vấn đề về tự nhiên và xã hội. Chúng ta không thể đi đến tất cả mọi nơi, không thể tận mắt nhìn thấy tất cả các sự vật, hiện tượng, nhưng con người luôn có khát vọng muốn được khám phá, tìm hiêu thế giới xung quanh. Nhu cầu tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh của con người đã xuất hiện ngay từ khi còn nhỏ.Từ khi trẻ ra đời đã muốn ngắm nhìn xung quanh, thế giới bên ngoài thật là lạ lẫm đối với trẻ, trẻ đã hứng thú đưa mắt nhìn theo những đồ vật có màu sắc sặc sỡ như màu xanh - đỏ treo trước mắt và tò mò đưa tay với, Càng lớn, nhu cầu đó càng tăng lên bằng việc trẻ bắt chước giọng điệu người lớn (thích tự mặc quần áo, đi dép của người lớn), làm những công việc của người lớn, hay với trẻ 5-6 tuổi kinh nghiệm sống đã có, trẻ liên tục hỏi những câu hỏi về thế giới xung quanh như: “Tại sao lại có trời ? gió ở đâu đến? con sinh ra như thế nào? ai đấy?, cái gì đây? Làm gì đấy? để làm gì?...” Chính là lúc nhu cầu khám phá thế giới xung quanh của trẻ càng cao. Nhưng vì trẻ nhỏ chưa có vốn sống, vốn kinh nghiệm, sự trải nghiệm còn ít, trẻ chưa tự khám phá về thế giới xung quanh nên người lớn phải giúp đỡ trẻ, phải tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia vào các hoạt động nhằm cho trẻ làm quen, khám phá về môi trường xung quanh. Khi trẻ được làm quen với thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ tích lũy được kiến thức, kỹ năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ phát triển về các mặt: Đức - Trí - Thể - Mĩ - Lao động. Thông qua việc tổ chức cho trẻ được hoạt động khám phá, trẻ sẽ được phát triển toàn diện các mặt,  nhân cách được hình thành và phát triển. Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục nói chung và Giáo dục mầm non nói riêng. Bởi vậy, việc trẻ được khám phá, được làm quen với môi trường xung quanh là một việc làm thiết thực,  rất cần thiết. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lí, nhận thức của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ Mẫu giáo lớn nói riêng, các nhà tâm lí học, giáo dục học đã chỉ ra rằng, quá trình tìm hiểu môi trường xung quanh được tổ chức mang tính chất khám phá, trải nghiệm theo phương thức “học bằng chơi thông qua chơi mà học”, là phù hợp đối với trẻ.
Vì tất cả những lý do trên, tôi luôn mong muốn mình phải làm thế nào để giúp trẻ học thật tốt bộ môn khám phá khoa học, tôi đã suy nghĩ và sáng tạo để tìm ra những hình thức, phương pháp giảng dạy, tạo ra môi trường học tập tốt nhất cho trẻ. Vì vậy bản thân tôi đã lựa chọn đề tài “Kinh nghiệm giúp trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi khám phá khoa học”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ làm quen với môn khám phá khoa học là không thể thiếu. Khám phá khoa học có tác dụng giáo dục về mọi mặt đối với trẻ như là: Ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ thể lực...
 Làm quen với khám phá khoa học là phương tiện để giao tiếp và làm quen với môi trường xung quanh để giao lưu và bày tỏ nguyện vọng của mình và đồng thời là công cụ của tư duy, là điều kiện dẫn dắt trẻ hòa nhập vào cuộc sống, có cơ hội cho trẻ gần gũi với môi trường xung quanh, hiểu biết về thế giới muôn loài xung quanh trẻ, hiểu về tầm quan trọng của việc phải bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường, nhằm tích lũy cho trẻ những tri thức, những ấn tượng tốt đẹp về thiên nhiên, về cuộc sống xã hội phong phú, đa dạng. Nhằm hình thành ở trẻ phương pháp suy nghĩ, thái độ, quan hệ tích cực, cách ứng xử đúng dắn với xung quanh, qua đó mà trẻ học làm người. Vì vậy các nhà giáo dục sử dụng nhiều phương pháp để cho trẻ tiếp cận với thế giới xung quanh. Nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy khám phá khoa học. 
3. Đối tượng nghiên cứu:
 	Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là trẻ 5 - 6 tuổi trường Mầm Non Đông Sơn. Tổng số trẻ là 39 cháu.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Qua thực tế giảng dạy và làm đề tài bản thân đã sủ dụng một số phương pháp sau:
- Trước hết phải nhận định được thực trạng của đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu sách báo, tài liệu về các hoạt động pháp triển nhận thức cho trẻ.
- Dự giờ trao đổi kinh nghiệm.
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp thực hành.
- Ghi chép quan sát.
- Động viên khen thưởng. 
II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận: 
Trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non có rất nhiều các môn học khác nhau, môn nào cũng góp phần quan trọng và cần thiết, trong đó có môn khám phá khoa học.
Tại sao nói môn khám phá khoa học quan trọng, bởi nó giữ một vai trò
quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ ngay từ tuổi ấu thơ. Khám phá khoa học giúp trẻ được trải nghiệm, khám phá , tư duyCũng như nhà tâm lý học lỗi lạc Jean Piaget đã giải thích tính ham hiểu biết của trẻ và khát vọng hành động của trẻ trong môi trường bởi quá trình tự điều chỉnh hay còn gọi là sự cân bằng. Quá trình tư duy của trẻ là tư duy tiền thao tác, kèm theo tư duy tượng trưng để trẻ tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh.Bên cạnh đó, đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ là: 
Thích các hoạt động chân tay và khám phá bằng các giác quan. Hay đặt câu hỏi nhưng không phải lúc nào cũng hiểu câu trả lời. Thường dành nhiều thời gian và chú ý hơn vào các hoạt động mà trẻ thích. Thích chơi theo nhóm 5 – 6 trẻ và thích trao đổi trong nhóm nhỏ. 
Có thể làm một số thí nghiệm do cô hướng dẫn và có thể giải thích theo nhiều cách khác nhau
Bắt đầu đưa ra những dự đoán dựa trên những gì trẻ được trải nghiệm. Thích nghĩ ra những lời giải thích về những gì quan sát được, thường thêm các chi tiết tưởng tượng vào các sự việc.
Trẻ bắt đầu suy nghĩ lập kế hoạch cho một hoạt động, chẳng hạn như nghĩ về việc gieo hạt trước khi trẻ thực hiện hành động thực tế. 
	Chính vì vậy, được sự trực tiếp thí nghiệm với các vật mà mình đang học là một điều thích thú đối với trẻ.
2.Thực trạng vấn đề:
*Thuận lợi:
- Về cơ sở vật chất nhà trường khang trang, sạch đẹp, đầy đủ điều kiện để tổ chức hoạt động khám phá khoa học:
+ Lớp có phòng học rộng thoáng mát,bàn ghế đúng quy cách, có đầy đủ ánh sáng cho các cháu học tập và vui chơi.
+ Vườn thiên nhiên phong phú đa dạng với nhiều chủng loại cây khác nhau. 
- Bản thân tôi đã có trình độ chuyên môn vững, yêu nghề mến trẻ,và có tâm huyết với nghề, ham học hỏi, luôn cố gắng tìm tòi, sáng tạo trong giảng dạy để tìm ra các biện pháp gây hứng thú  cho trẻ trong các hoạt động.
- Ban giám hiệu và tổ chuyên môn nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên về mọi mặt và xây dựng mối quan hệ đoàn kết, thân ái trong tập thể giáo viên, nhân viên và đặc biệt là sự quan tâm thường xuyên tới cô và trẻ.
- Trẻ ở cùng độ tuổi, thông minh, nhanh nhẹn, có nề nếp
- Có sự quan tâm và giúp đỡ tận tình của các bậc phụ huynh, có sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của phòng giáo dục. 
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi thì trong quá trình giảng dạy còn gặp không ít khó khăn sau:
- Phương pháp mà giáo viên sử dụng để tổ chức cho trẻ khám phá khoa học chủ yếu là các phương pháp trực quan và dùng lời nên việc truyền thụ những kiến thức khoa học trừu tượng cho trẻ gặp nhiều khó khăn.
- Tài liệu, sách báo về các thí nghiệm khám phá khoa học cho trẻ còn hạn chế.
- Số trẻ nam đông hơn số trẻ nữ nên rất hiếu động trong các giờ hoạt động
- Trẻ nhanh tiếp thu nhưng cũng dễ quên những kiến thức vừa học 
- Một số cháu còn nhút nhát, tự ti, sức khoẻ còn chưa được tốt nên phần nào còn hạn chế ở hoạt động khám phá khoa học.
* Kết quả khảo sát đầu năm:
Khảo sát khả năng khám phá khoa học ở trẻ
Tổng số trẻ
Trước thực nghiệm
Đạt
Tốt
Khá
TB
SL
%
SL
%
SL
%
Trẻ chú ý vào nội dung
39
9
23
19
49
11
28
Kỹ năng so sánh và phân loại
39
8
21
16
41
15
38
Trẻ nắm được kiến thức
39
10
26
16
41
13
33
3. Các giải pháp thực hiện:
3.1. Sử dụng đồ dùng trực quan trong tiết khám phá khoa học:
Như chúng ta đã biết: Đồ dùng trực quan là một trong những phương tiện dạy học đạt kết quả cao nhất. Đồ dùng trực quan hấp dẫn sẽ giúp trẻ nhớ rất lâu những kiến thức mà cô cung cấp nhất là khi trẻ được trực tiếp quan sát, trực tiếp hoạt động. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc giúp trẻ tiếp thu những kiến thức. Bởi lẽ trực quan trong dạy học huy động được tất cả các giác quan tham gia vào quá trình nhận thức của trẻ.
Khi lập kế hoạch cho mỗi tiết học tôi đã rất chú ý tới cách thức truyền thụ kiến thức tới trẻ, đặc biệt là những đồ dùng trực quan phải mang tính thẩm mỹ, tính chính xác và sự sáng tạo từ đó kich thích được sự hứng thú, ham hiểu biết ở trẻ.
Đồ dùng trực quan trong các hoạt động dạy và học rất đa dạng và phong phú như: Đồ dùng trực quan bằng vật thật: cốc,chén, con cá, các loại rau-quả, Các loại mô hình: Mô hình máy bay, Tàu hỏa...Các loại tranh ảnh, lô tô. Các
hình ảnh động qua màn chiếu khi sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin
Tôi luôn lưu ý tới việc sử dụng đồ đùng trực quan phải phù hợp với nội dung từng tiết dạy ngay từ khi lập kế hoạch cho mỗi tiết khám phá khoa học tôi luôn suy nghĩ và lựa chọn những đồ dùng trực quan sao cho trẻ dễ hiểu và thích thú đối với những tiết chủ đề về môi trường xã hội thì tôi lựa chọn tranh, ảnh sao cho phù hợp để dạy trẻ. Qua những đồ chơi được làm khéo léo giống với thực tế sẽ giúp trẻ chú ý quan sát đồ chơi, chơi với đồ chơi để khám phá những kiến thức về đối tượng.
 	Vì trẻ có sự tưởng tượng chưa phong phú, kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi cho trẻ được tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng nhất.
Ví dụ: Với đề tài “Làm quen với một số loại quả” (Chủ Đề thực vật), tôi đã sử dụng những loại quả thật cho trẻ quan sát và trải nghiệm. Khi quan sát quả cam tôi đưa quả cam ra và hỏi trẻ:
- Đây là quả gì? nhìn xem quả cam có hình gì? Màu gì?
- Hãy sờ xem vỏ của chúng có đặc điểm gì? muốn biết cam có mùi gì hãy đưa lên mũi ngửi xem nào
  	Cuối cùng cho trẻ cắt cam và nếm thử vị của quả cam sau đó hỏi trẻ thấy vị của nó như thế nào? (có trẻ nói chua, trẻ nói ngọt) từ đó tôi giải thích “Qủa cam chưa chín có vị chua, còn quả cam khi chín thì có vị ngọt” khi được trải nghiệm thực tế thì trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền thụ tới trẻ. Qua bài tìm hiểu về các quả tôi không những đã cho trẻ tìm hiểu một cách tổng quát về các loại quả mà còn dạy trẻ kĩ năng cắt quả và bỏ rác đúng nơi qui định.
  	Cách thức sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng đồ dùng trực quan vì vậy tôi thường xuyên sử dụng tạo điều kiện để cho trẻ nắm kiến thức.Thông qua những hình ảnh động, đoạn phim được đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự mới lạ cho trẻ vì tất cả những sự vật hiện tượng đều có thể chụp lại, quay lại để đưa lên màn hình cơ hội để trẻ khám phá những sự vật- hiện tượng, con vật mà trẻ khó có cơ hội tiếp xúc như: tìm hiểu động vật sống trong rừng, động vật sống dưới biển, một số hoạt động của những loại côn trùng
Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong tiết học phải được sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo. Trong tiết học tôi không sử dụng một loại đồ dùng từ đầu đến cuối, cũng không sử dụng quá nhiều loại đồ dùng để trẻ khó hiểu mà tôi phối hợp các loại đồ dùng trực quan sao cho phù hợp, linh hoạt từng phần sao cho trẻ không nhàm chán.
Ví dụ: Với đề tài “Làm quen với một số loại rau” (Chủ đề thế giới thực
vật), tôi có thể sử dụng một số loại đồ dùng như: Tranh lô tô, vật thật, đồ chơi, màn hình, mô hình kết hợp với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp như phần đầu giới thiệu bài cho trẻ đi thăm mô hình vườn rau với nhiều loại rau, phần cung cấp kiến thức cho trẻ quan sát các loại rau thật, phần mở rộng cho trẻ xem trên màn hình một số loại rau khác và các món ăn được chế biến từ các loại rau, phần luyện tập cho trẻ chơi các trò chơi qua những đồ rau nhựa, tranh lô tô như ( Chuyển thực phẩm về kho hoặc cho trẻ bật nhảy lên tìm loại rau mà cô giáo yêu cầu).
Việc kết hợp sử dụng linh hoạt các loại đồ dùng trực quan trong tiết học tôi thấy trẻ hứng thú hơn mỗi khi học môn khám phá khoa học, kiến thức tôi truyền đạt tới trẻ rất nhẹ nhàng và thoải mái hơn và trẻ ghi nhớ một cách tốt nhất.
3.2. Các trò chơi thí nghiệm khi sử dụng trong các hoạt động khám phá khoa học:
Trong khám phá khoa học việc sử dụng trò chơi, thí nghiệm đơn  giản  luôn  tạo  cho  trẻ  sự  hứng  thú,  kích  thích  trẻ  tích  cực  hoạt động,  phát triển ở trẻ tính tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi, phát triển óc quan sát, phán đoán và các năng lực hoạt động trí tuệ,....chính vì vậy mà phương pháp sử dụng các trò chơi thực nghiệm luôn đạt kết quả cao trong hoạt động khám phá khoa học. Vì thế mà tôi đưa ra một số thí nghiệm phù hợp với trẻ 
Ví dụ 1: Thí nghiệm về sự nảy mầm và phát triển thành cây từ hạt
* Mục đích:
       Trẻ biết được cây cũng cần thức ăn ,ánh sáng và nước mới sinh trưởng được.
* Chuẩn bị:
          Một vài hạt đậu tương, đậu xanh, (hạt lạc)2 khay nhỏ, một ít đất .bình nước tưới.
*Tiến hành:
- Ngâm hạt vào trong nước ấm từ 1 đến 2 tiếng sau đó lấy ra đặt hạt vào khay có sẵn đất. Đặt 1 khay nơi có ánh sáng mặt trời và cho trẻ tưới nước hàng ngày. Khay còn lại đặt trong bóng tối và không tưới nước. Quan sát sau 3 đến 4 ngày cây trong khay được tưới nước hàng ngày sẽ nảy mầm và lớn dần còn khay không tưới sẽ không nảy mầm. Lúc này hãy cho trẻ giải thích hiện tượng nảy mầm và không nảy mầm trên .
- Vì trẻ mẫu giáo lớn nên tôi cho trẻ tự làm và nêu kết quả thực nghiệm của bản thân .
* Giải thích và kết luận:
Cây nảy mầm được nhờ được gieo xuống đất, có ánh sáng và tưới nước đầy đủ sáng có thức ăn trong hạt và nước uống trong đất và ngược lại cây mà 
không được chăm sóc đầy đủ sẽ không nảy mầm được.
Ví dụ 2: Lực hút của nam châm
 	* Mục đích:
         Cho trẻ biết nam châm có thể hút các vật làm từ kim loại, còn những vật không làm bằng chất kim loại như ( gỗ, nhôm, nhựa..) thì nam châm không hút.
* Chuẩn bị:
          Cục nam châm,  cái đinh, cái kéo, thanh bằng nhôm, cái thước nhựa, cục gôm, quả bóng bay và một số đồ dùng khác trong lớp.
*Tiến hành:
- Cho trẻ quan sát những đồ dùng đã chuẩn bị gọi tên chúng và nêu chất liệu của từng đồ dùng.
- Mời 6 - 7 trẻ lên lấy 1 trong số những vật mà cô chuẩn bị hỏi trẻ:
Vật đó có tên là gì? làm bằng gì?
Cho trẻ đưa vật đó lại gần cục nam châm và trẻ lời xem chúng có hút nhau không và vì sao?
- Lần lượt cô cho các trẻ được thí nghiệm với các vật xung quanh lớp và đưa ra nhận xét, nam châm hút được những vật làm bằng gì ? và không hút được những vật gì?
* Giải thích và kết luận:
          Nam châm chỉ hút được các vật làm bằng kim loại ngoài ra không hút được các vật làm từ các chất khác.
Ví dụ 3: Thí nghiệm về “Vật chìm, vật nổi”.
* Chuẩn bị:
+ Đồ dùng: Các mẩu gỗ, bi sắt đường kính, thìa inox, cục nam châm, một miếng xốp, giấy, chậu đựng nước sạch.
+ Đồ chơi: Thuyền giấy, lá mít trẻ đã gấp, bóng nhựa, đồ chơi nhựa.
-Tiến hành: Cho trẻ tự lấy đồ chơi đã chuẩn bị sẵn thả vào chậu nước, và yêu cầu trẻ nhận xét vật nào chìm? vật nào nổi tại sao ?
Kết quả: Qua thí nghiệm này giúp trẻ hiểu những đồ vật làm từ những nguyên liệu nặng sắt, thép, nhôm như bi sắt , bát, thìa inox, . Thì chìm dưới nước, những đồ vật làm từ nguyên liệu nhẹ: gỗ, xốp, giấy, nhựa,.thì nổi trên nước .
Ví dụ 4:  Thí nghiệm về “Những đồ vật bay và không bay”
* Mục đích:
- Giúp trẻ nhận biết và phân biệt được những thứ gió thổi bay và những thứ gió thổi không bay
- Nhận biết có những đồ vật bay được và không bay được tùy thuộc vào chất liệu khác nhau
* Chuẩn bị:        
- Quạt trần, quạt nan, quạt mo, quạt giấy
- Các đồ dùng khác nhau: Giấy màu, vải mỏng, kẹp ghim, kéo, xắc xô
* Cách tiến hành:
- Đặt các đồ vật trên bàn, cho trẻ quan sát phỏng đoán “ Vật nào bay và không bay  khi mở quạt hoặc thổi ”
- Trẻ nêu ý kiến và giải thích lý do tại sao?
- Cô mở quạt và quan sát xem vật nào bay và không bay
- Trẻ lí giải hiện tượng
* Giải thích và kết luận:
          Những vật thường bay khi gặp gió là những vật nhẹ như giấy, vải. Còn những vật như kẹp ghim, kéo được làm từ sắt nặng nên khi gặp gió thì không bay được
Ví dụ 5:  Thí nghiệm: Trứng chìm - Trứng nổi
* Chuẩn bị: 
hai ly nước, muối, đường, dầu ăn,thìa, 2 quả trứng,
* Tiến hành:
Tôi cho cháu làm thí nghiệm: đổ muối vào hai ly nước, lượng nước hai ly bằng nhau, riêng lượng muối thì khác nhau, khuấy đều sẽ thấy trứng có quả sẽ nổi, quả chìm
Trẻ thực hiện: bỏ trứng vào hai ly nước
Ly A trứng nổi, ly B trứng chìm
→ Cho cháu tìm ra nguyên nhân. Thử ly nước A sao thấy mặn quá, thử ly nước B không mặn bằng hoặc bạn đổ vào ly A bao nhiêu muỗng muối, đổ vào ly B bao nhiêu muỗng muối.
Từ đó cháu suy ra: vì ly B ít muối nên trứng không thể nổi lên được. Muốn trứng nổi lên phải làm gì? (Cháu thỏa thuận với nhóm là phải thêm muối vào ly B)
 → Vậy trứng ở trong nước muối có nổi được không? Trứng còn nổi được ở đâu nữa không?
→ Mở rộng: nước đường, dầu ăn.→ tiếp tục cho trẻ khám phá.
Trong quá trình thực hiện, tôi thấy trẻ rất hứng thú, phát triển khả năng tư duy cao. Trẻ biết đặt ra những câu hỏi “Tại sao” trước những hiện tượng lạ, từ đó thu nhận được những hiểu biết, những vốn kinh nghiệm nhất định để áp dụng trong đời sống hàng ngày. Hầu hết tất cả các trẻ đều háo hức chờ đón những giờ thí nghiệm, tập trung cao độ để quan sát hiện tượng xảy ra, kiên nhẫn chờ đợi kết quả. Trẻ bắt đầu để ý những biến đổi của sự vật hiện tượng xung quanh, biết tự khám phá bằng nhiều giác quan và có sự trao đổi với cô, với bạn.
Mỗi khi cháu khám phá ra điều gì, ta cho cháu ghi kết quả bằng kí hiệu mà cô và cháu đã thỏa thuận để dễ kiểm tra. Khi thí nghiệm thành công, tôi thấy trên khuôn mặt các cháu lộ rõ vẻ thích thú, phấn khởi vô cùng và có những nhóm đã reo hò ầm ĩ. Với tiết học này tôi thấy vui và các cháu thực sự chủ động khi làm công việc thí nghiệm. Lại thêm một lần nữa tôi đã tác động vào các cháu tính tự tin, tự lập, tự suy nghĩ, tự tìm ra kết quả nhanh nhất để hoàn thành công việc mình đang làm.
Như vậy việc tạo các điều kiện cho trẻ tiếp xúc các sự vật hiện tượng và môi trường xung quanh bằng các thí nghiệm, thử nghiệm nhận thức của trẻ được  mở rộng, khả năng quan sát, tri giác của trẻ phát triển tốt đa số trẻ thể hiện được tính tích cực chủ động khi quan sát đối tượng trong quá trình quan sát trẻ tỏ ra nhanh nhẹn linh hoạt và phát triển nhiều vốn kinh nghiệm,  vốn từ của trẻ trở nên phong phú hơn khả năng diễn đạt tổt hơn.
3.3. Lồng ghép môn khám phá khoa học vào các tiết học khác.
Trong dạy học không có môn học nào, không có phương pháp nào là duy nhất , bao quát các môn học, các phương pháp khác, mà để đạt được hiệu quả giáo dục cần phải phối hợp lồng ghép giữa các lĩnh vực, các phương pháp mới có được hiệu quả tốt nhất đối với trẻ. Hiểu được vấn đề ấy trong các tiết dạy tôi thường xuyên lồng ghépkhám phá khoa học vào trong các môn học khác như toán, âm nhạc, văn học, 
Ví dụ: Trong hoạt động âm nhạc trẻ học bài hát “Cá vàng bơi”
Tôi cho trẻ quan sát bức tranh (chậu cá thật) hoặc những đoạn vi deo về những chú cá vàng đáng yêu đang tung tăng bơi lội dưới nước sau đó hỏi trẻ:
+ Đây là con cá gì? Nêu các đặc điểm của chúng?
+ Chúng thường được nuôi ở đâu? Cá vàng ăn gì?
+ Vai trò của cá vàng để làm gì? Nêu cảm nhận của các con về những chú cá này?
Sau khi trò chuyện, tìm hiểu về những chú cá vàng xong tôi giới thiệu với trẻ bài hát nói về những chú cá đáng yêu này. Bài hát “Cá vàng bơi”.
Qua tiết học âm nhạc tôi đã giúp trẻ có thêm những hiểu biết về đặc điểm và vai trò của những con cá vàng từ đó trẻ cảm thấy yêu thích bài hát hơn, hoạt động âm nhạc trở nên hứng thú hơn.
Và những tiết khám phá khoa học thường được quan niệm khô khan thì tôi luôn khéo léo lồng

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_kinh_nghiem_giup_tre_mau_giao_5_6_tuoi_kham_pha_khoa_ho.docx