SKKN Kinh nghiệm giúp học sinh phân biệt cách giải hai dạng toán cơ bản về phân số
Trong các môn học ở Tiểu học, môn toán có một vị trí rất quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở bậc Tiểu học. Sở dĩ môn toán quan trọng vì nó là thứ ngôn ngữ dùng chung cho cả thế giới. một người muốn thành danh thì nhất thiết phải biết tính toán. ở môn toán con người có một tư duy logic từ cụ thể đến trừu tượng không riêng của một ai, một đất nước nào. Vì vậy phương pháp học toán như thế nào để đạt kết quả cao nhất là một vấn đề không chỉ ở bản thân người học mà còn có tầm quan trọng đặc biệt của người dạy nữa.
Các kiến thức, kĩ năng môn toán ở Tiểu học có rất nhiều ứng dụng trong đời sống, rất cần cho mọi người lao động, rất cần để học sinh học tốt các môn học khác và tiếp tục học môn toán ở các lớp trên. Hiện nay, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ giáo dục phổ cập nâng cao chất lượng đại trà thì việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu, đào tạo nhân tài cho đất nước được Bộ Giáo dục đặc biệt quan tâm. Trong đó việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu toán được hết sức chú trọng ở tất cả các cấp học. Với Tiểu học, việc bồi dưỡng học sinh Câu lạc bộ Toán, học sinh năng khiếu toán được tổ chức theo nhiều hình thức như: Tổ chức bồi dưỡng theo từng khối, từng lớp ,.; tổ chức giao lưu giữa các trường, thi giải toán trên báo, trên mạng,. Mục đích của việc bồi dưỡng học sinh Câu lạc bộ Toán, học sinh năng khiếu về môn Toán là phát triển năng lực tư duy toán học trong học sinh, thúc đẩy phong trào học tốt, dạy tốt trong nhà trường, góp phần nâng cao nghiệp vụ sư phạm.
MỤC LỤC TT Nội dung Trang 1 MỞ ĐẦU 2 1.1 Lí do chọn đề tài 2 1.2 Mục đích nghiên cứu 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 3 2 NỘI DUNG 4 2.1 Cơ sở lí luận 4 2.1.1 Một số vấn đề về dạy toán ở tiểu học. 4 2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 5 2.3 Các giải pháp thực thực hiện 7 2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Xác định một số sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi giải các bài toán về phân số. 7 2.3.2. Giải pháp thứ hai: Đề xuất cách giải 2 dạng toán cơ bản về phân số ở dạng tổng quát để học sinh dễ phân biệt và biết cách ra đề bài tương tự. 10 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 19 3 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 19 Kết luận 19 Kiến nghị 20 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Trong các môn học ở Tiểu học, môn toán có một vị trí rất quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở bậc Tiểu học. Sở dĩ môn toán quan trọng vì nó là thứ ngôn ngữ dùng chung cho cả thế giới. một người muốn thành danh thì nhất thiết phải biết tính toán. ở môn toán con người có một tư duy logic từ cụ thể đến trừu tượng không riêng của một ai, một đất nước nào. Vì vậy phương pháp học toán như thế nào để đạt kết quả cao nhất là một vấn đề không chỉ ở bản thân người học mà còn có tầm quan trọng đặc biệt của người dạy nữa. Các kiến thức, kĩ năng môn toán ở Tiểu học có rất nhiều ứng dụng trong đời sống, rất cần cho mọi người lao động, rất cần để học sinh học tốt các môn học khác và tiếp tục học môn toán ở các lớp trên. Hiện nay, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ giáo dục phổ cập nâng cao chất lượng đại trà thì việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu, đào tạo nhân tài cho đất nước được Bộ Giáo dục đặc biệt quan tâm. Trong đó việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu toán được hết sức chú trọng ở tất cả các cấp học. Với Tiểu học, việc bồi dưỡng học sinh Câu lạc bộ Toán, học sinh năng khiếu toán được tổ chức theo nhiều hình thức như: Tổ chức bồi dưỡng theo từng khối, từng lớp ,...; tổ chức giao lưu giữa các trường, thi giải toán trên báo, trên mạng,.... Mục đích của việc bồi dưỡng học sinh Câu lạc bộ Toán, học sinh năng khiếu về môn Toán là phát triển năng lực tư duy toán học trong học sinh, thúc đẩy phong trào học tốt, dạy tốt trong nhà trường, góp phần nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Kể từ năm học 1995 – 1996, các vấn đề về phân số, tỉ số đã được chính thức đưa vào chương trình toán ở bậc tiểu học và trở thành một chủ đề quan trọng trong chương trình lớp 4 và lớp 5 . Từ đó đến nay các bài toán về phân số luôn luôn xuất hiện trong trong các kì Giao lưu câu lạc bộ “Em yêu Toán” ở bậc Tiểu học. Vì thế giải thành thạo các bài toán về phân số là một yêu cầu đối với tất cả các em học sinh ở cuối cấp bậc tiểu học, đặc biệt là đối với các em học sinh Câu lạc bộ, học sinh năng khiếu về môn Toán. Sau một quá trình giảng dạy và bồi dưỡng học sinh câu lạc bộ “Em yêu Toán”, học sinh năng khiếu về môn Toán tôi thấy học sinh thật không dễ dàng nhận ra hai dạng toán cơ bản về phân số là tìm giá trị một phân số của một số và tìm một số biết giá trị phân số của số đó. Làm thế nào để giúp học sinh phận biệt hai dạng toán đố này là một câu hỏi khiến tôi trăn trở suy nghĩ. Với vốn kiến thức nhỏ bé tôi xin đưa ra cái gọi là “Kinh nghiệm giúp học sinh phân biệt cách giải hai dạng toán cơ bản về phân số” dành cho việc tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ toán lớp 5, bồi dưỡng học sinh năng khiếu về môn Toán. Hi vọng khi đọc sáng kiến này, giáo viên và học sinh sẽ có thêm một chút kĩ năng nhận dạng bài toán đố về phân số. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Hệ thống lại hai dạng toán cơ bản về phân số các em đã được học ở lớp 4, trên cở sở đó phát triển mở rộng kiến thức về 2 dạng toán này. - Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, giáo viên ngành Giáo dục tiểu học khi dạy học nội dung phân số. - Giúp học sinh có thêm kĩ năng giải toán phân số, sử dụng thành thạo và vận dụng một cách linh hoạt các kiến thức được học vào thực tế đời sống. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Học sinh lớp 5. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Tiến hành tìm hiểu, đọc và nghiên cứu, chọn lọc các tài liệu liên quan đến đề tài: + Các sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo + Các tài liệu, bài giảng về phương pháp dạy học toán ở tiểu học. + Các sách báo, các bài viết về khoa học toán phục vụ cho đề tài. + Các tài liệu giáo dục học, tâm lí học. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: - Tiến hành thực nghiệm sư phạm với lớp học thực nghiệm và lớp học đối chứng trên cùng một lớp đối tượng. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp quan sát - Trao đổi và thảo luận về những thuận lợi, khó khăn khi tổ chức hoạt động học tập giúp phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh trong việc học tập môn toán ở tiểu học. - Dự giờ, quan sát việc dạy học của giáo viên và việc học của học sinh trong quá trình khai thác các bài tập trong sách giáo khoa. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận. 2.1.1. Một số vấn đề về dạy toán ở tiểu học: - Học sinh tiểu học học toán như thế nào? + Học sinh tiểu học thường tri giác trên tổng thể. Về sau, các hoạt động tri giác phát triển và được hướng dẫn bởi các hoạt động nhận thức khác nên chính xác hơn. + Chú ý không chủ định chiếm ưu thế ở học sinh tiểu học. Sự chú ý của học sinh tiểu học còn phân tán, dễ bị lôi cuốn vào các trực quan, gợi cảm, thường hướng ra bên ngoài vào hành động, chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy. + Trí nhớ trực quan – hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ logic, hiện tượng hình ảnh cụ thể dễ nhớ hơn các câu chữ trừu tượng, khô khan. + Trí tưởng tượng còn chịu tác động nhiều của hứng thú, kinh nghiệm sống và mẫu vật đã biết. Lứa tuổi tiểu học (6 - 7 tuổi đến 11 – 12 tuổi) là giai đoạn mới của phát triển tư duy – giai đoạn tư duy cụ thể. Trong một chừng mực nào đó, hành động trên các đồ vật, sự kiện bên ngoài còn là chỗ dựa hay điểm xuất phát cho tư duy. + Học sinh tiểu học bước đầu có khả năng thực hiện việc phân tích tổng hợp, trừu tượng hóa – khái quát hóa và những hình thức đơn giản của sự suy luận, phán đoán. Ở học sinh tiểu học, phân tích và tổng hợp phát triển không đồng đều, tổng hợp có khi không đúng hoặc không đầy đủ dẫn đến khái quát sai trong hình thành khái niệm. + Các khái niệm toán học được hình thành qua trừu tượng hóa và khái quát hóa nhưng không thể chỉ dựa vào tri giác bởi khái niệm toán học còn là kết quả của thao tác tư duy đặc thù. - Mục tiêu dạy học môn toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh: + Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. + Hình thành kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. + Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt chúng (nói và viết), cách phát hiện và giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. 2.1.2. Vai trò của bài tập toán và ý nghĩa của việc giải toán. - Vai trò của bài tập toán: + Khái niệm bài toán [2,Tr151] Theo Pôlya viết: “Bài toán đặt ra sự cần thiết phải tìm hiểu một cách có ý thức phương tiện thích hợp để đạt tới một mục đích trông thấy rõ ràng nhưng không thể đạt được ngay”. Ở đây chúng ta hiểu: Bài toán là yêu cầu cần có để đạt được một mục đích nào đó. + Vai trò của bài tập toán Môn toán có vai trò hết sức quan trọng với sự phát triển tư duy, hình thành kiến thức cho học sinh tiểu học. Với học sinh, có thể xem giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học. Các bài tập toán ở trường tiểu học là một phương tiện rất hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy, hình thành kĩ năng kĩ xảo, ứng dụng toán học vào thực tiễn. Ta đã biết bài toán là một dạng của bài tập toán học cho nên để hiểu được vai trò của việc giải bài toán về phân số, ta sẽ đi tìm hiểu về vị trí cũng như vai trò, chức năng của bài tập toán học ở trường tiểu học. + Bài tập có vai trò quan trọng trong môn toán, dạy toán là dạy hoạt động toán học. Điều căn bản là bài tập có vai trò là giá mang hoạt động của học sinh, các bài tập toán ở trường tiểu học là một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy và hình thành kỹ năng, kỹ xảo, ứng dụng toán học vào thực tiễn. Thông qua việc giải quyết bài tập, học sinh phải thực hiện những hoạt động nhất định, bao gồm cả nhận dạng và thể hiện định nghĩa, quy tắc hay phương pháp những hoạt động toán học phức tạp, những hoạt động trí tuệ phổ biến trong toán học, những hoạt động trí tuệ chung và những hoạt động ngôn ngữ. Hoạt động của học sinh liên hệ mật thiết với mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. - Ý nghĩa của việc giải toán Giải toán nói chung và giải toán ở bậc tiểu học nói riêng: + Là hoạt động quan trọng trong quá trình dạy và học toán, nó chiếm khoảng thời gian tương đối lớn trong nhiều tiết học cũng như toàn bộ chương trình môn toán. Vì vậy, việc giải toán có ý nghĩa rất quan trọng: + Đó là hình thức tốt nhất để củng cố, đào sâu, hệ thống hóa kiến thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Trong nhiều trường hợp, giải bài toán là một hình thức rất tốt để dẫn dắt học sinh tự mình đi đến kiến thức mới. + Đó là một hình thức vận dụng những kiến thức đã học vào các vấn đề cụ thể, vào thực tế, vào các vấn đề mới. + Đó là một hình thức tốt nhất để giáo viên kiểm tra học sinh và học sinh tự kiểm tra mình về năng lực, về mức độ tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học. + Việc giải toán có tác dụng lớn gây hứng thú học tập cho học sinh, phát triển trí tuệ và giáo dục, rèn luyện con người học sinh về rất nhều mặt. 2.2. thực trạng của vấn đề nghiên cứu: - Thực trạng: + Đặc điểm tình hình: Năm học 2017 – 2018, tôi được phận công chủ nhiệm câu lạc bộ toán lớp 5A. Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh khối 5, tôi ra đề kiểm tra có một phần khó để nắm được khả năng học toán của từng học sinh. Đề kiểm tra như sau : (Thời gian làm bài 40 phút) Bài 1: Tính: a. 3867 + 498 – 867 b. 45348 : 12 + 198 Bài 2: Tìm x : a. x + 438 = 92 13 b. 54 x = 900 – 46 x Bài 3: Một lớp học có 28 học sinh, trong đó số em nam bằng số em nữ. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu em nữ, bao nhiêu em nam ? Bài 4: Một hình chữ nhật có chu vi 42 cm. Chiều rộng bằng chiều dài. Tính diện tích của hình chữ nhật đó. Bài 5: Tính bằng cách thuận tiện: a. 376 55 + 44 376 + 376 b. Kết quả khảo sát như sau: Số học sinh được kiểm tra Kết quả Chưa hoàn thành Hoàn thành Hoàn thành tốt 35 em 5 em 19 em 6 em Đạt tỉ lệ (%) 14,3% 65,6% 17,1% Dựa vào kết quả khảo sát, tôi đã định hướng cho học sinh viết đơn tham gia câu lạc bộ. Kết quả có 18 học sinh tự nguyện tham gia câu lạc bộ toán. + Khảo sát chất lượng học sinh câu lạc bộ: Sau khi cho học sinh ôn tập lại về phần phân số, tôi thấy học sinh câu lạc bộ cơ bản nắm được kiến thức yêu cầu nhưng vẫn còn lúng túng khi giải toán. Để hiểu rõ thực trạng này tôi cho học sinh làm bài kiểm tra: Đề bài: Bài 1: Một người bán một tấm vải dài 75m. Lần thứ nhất người đó bán được tấm vải, lần thứ hai bán tiếp được số vải còn lại. Lần thứ ba bán nốt số vải còn lại. Hỏi mỗi lần người đó bán được bao nhiêu mét vải ?. Bài 2: Một người bán một tấm vải . Lần thứ nhất người đó bán được tấm vải, lần thứ hai bán tiếp được số vải còn lại. Lần thứ ba bán 20m thì vừa hết. Hỏi tấm vải người đó đem bán dài bao nhiêu mét ?. Thời gian làm bài là 20 phút. Kết quả thu được như sau: Số học sinh được kiểm tra Kết quả Chưa hoàn thành Hoàn thành Hoàn thành tốt 18 em 7 em 11 em 0 Đạt tỉ lệ (%) 38,9% 61,1% 0 Số lượng những bài không đạt yêu cầu là do các em chưa biết khai thác đề bài để tìm ra cách giải. Số lượng bài đạt yêu cầu thì hầu hết các em trình bày chưa rõ ràng và giải theo cảm tính, kết quả đúng nhưng cách diễn đạt sai, tôi cho rằng hiện tượng trên phản ánh phần nào vai trò của người giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh phân loại bài toán và đưa ra cách giải. Vì vậy tôi quyết đinh phân tích nguyên nhân dẫn đến sai lầm của học sinh khi giải các bài toán dạng này để có biện pháp khắc phục - Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên. Từ thực trạng trên để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn toán Câu lạc bộ nói chung, chất lượng bồi dưỡng học sinh năng khiếu về môn Toán nói riêng và tháo gỡ phần nào những khó khăn của học sinh trong việc phân biệt cách giải 2 dạng toán cơ bản về phân số, tôi tiến hành cải tiến cách dạy theo hướng sau: 2.3. Các giải pháp thực hiện. Khi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh câu lạc bộ lớp 5, học sinh năng khiếu Toán tôi cố gắng sưu tầm tài liệu để tham khảo, tôi thấy hệ thống các chuyên đề nâng cao rất rộng, trong mỗi chuyên đề lại có nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên nếu chỉ ôn luyện cho học sinh những bài toán có sẵn trong tài liệu bồi dưỡng thì chưa đạt được kết quả cao mà người giáo viên phải biết tìm tòi các đặc điểm chung để phân dạng bài toán rồi sáng tác thêm các đề toán mới dựa trên những cơ sở chắc chắn về đại số và đề toán có sẵn để kích thích được tính tìm tòi, ham hiểu biết, khích lệ được niềm say mê giải toán ở học sinh. Nhằm giúp học sinh phân biệt cách giải hai dạng toán cơ bản về phân số, tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau: - Xác định một số sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi giải các bài toán về phân số. - Đề xuất cách giải ở dạng tổng quát và đưa ra phương pháp giải một số bài toán cụ thể thuộc hai dạng đê học sinh hiểu rõ và biết cách ra thêm các đề toán tương tự. - Kiểm tra kết quả nhằm khẳng định sự tiếp nhận của học sinh về cách giải các bài toán về phân số. 2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Xác định một số sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi giải các bài toán về phân số. Học sinh không giải được một bài toán hoặc giải được bài toán nhưng không đúng kết quả do rất nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân thường được các thầy cô cho rằng học sinh không chú ý nghe giảng, không chịu làm bài tập ứng dụng dẫn đến việc nắm kiến thức không vững... Tuy nhiên đó chỉ là những cái khái quát, nhìn sơ lược từ bên ngoài của các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh mà ít ai trực tiếp nghiên cứu và đi sâu phân tích vấn đề vì sao học sinh không giải được bài toán như vậy. Với học sinh có năng học toán tham gia câu lạc bộ thì cũng không loại trừ trường hợp như vậy. Việc học sinh gặp phải những sai lầm thiếu sót khi giải toán là một việc không thể tránh được. Qua việc bồi dưỡng học sinh, việc khảo sát một số đối tượng học sinh tôi thấy sai lầm của học sinh có một số nguyên nhân phổ biến sau: - Sai lầm do không nắm vững, không hiểu rõ nội dung bài toán: Điều này xuất phất từ nguyên nhân trực tiếp là các em chưa hiểu rõ bản chất của 2 dạng toán “Tìm giá trị phân số của một số” và “Tìm một số biết giá trị phân số của số đó” . Ví dụ: (Bài 62 – BT phát triển trí thông minh HS lớp 5) Lớp 5A có 30 học sinh. Trong đó số học sinh là bạn nam. Hỏi lớp 5A có bao nhiêu bạn nữ ?. Khi cho 15 học sinh giải thì: + 8 học sinh có cách giải như sau: Số học sinh nữ là: 30 : ( 2 + 3) x 2 = 12 (bạn) Số học sinh nam là: 30 – 12 = 18 ( bạn) + 10 học sinh có cách giải như sau: Coi số học sinh cả lớp làm 3 phần bằng nhau thì số học sinh nam là 2 phần như thế. Do đó giá trị một phần là: 30 :3 = 10 (bạn) Số học sinh nam là: 10 x 2 = 20 (bạn) Số học sinh nữ là: 30 – 20 = 10 (bạn) Nếu học sinh hiểu bản chất của bài toán số học sinh là của 30 thì học sinh tìm ngay ra cách giải đơn giản: Tính số học sinh nam"số học sinh nữ Tính số phần học sinh nữ trong lớp " số học sinh nữ. - Sai lầm khi giải bài toán học sinh còn nặng về trí nhớ máy móc, tư duy chưa linh hoạt: Ví dụ: Một cửa hàng bán gạo, buổi sáng bán được số gạo, buổi chiều bán được số gạo còn lại thì cửa hàng còn 2 tạ gạo. Hỏi cửa hàng có bao nhiêu kg gạo? Có tới 12 học sinh giải như sau: Đổi 2 tạ = 200 kg Phân số chỉ số gạo còn lại là: 1 –( + ) = (số gạo) Số gạo ban đầu là: (200 : 10) x 3 = 600 (kg) Như vậy học sinh đã ghi nhớ cách giải ở dạng 1 nên nhầm và lại còn quên mất dữ kiện bài toán là số gạo còn lại không phải số gạo ban đầu nên kết quả làm sai.Nếu HS nhớ được dạng toán là dạng 2 thì khi thực hiện phép tính (200 :) không chia được các em sẽ xem lại phép tính trước, sẽ thấy mình xác định đề bài sai ngay từ đầu và sẽ suy nghĩ để làm lại. Sai lầm khi trình bày bài giải Ví dụ: Biết quãng đường AB dài 12 m. Hỏi quãng đường AB dài bao nhiêu ki – lô - mét (Bài số 3 trang 16 – Toán 5) Học sinh làm là: Bài giải: 1 phần quãng đường dài là: 12 : 3 = 4 (km) Quãng đường AB dài là : 4 x 10 = 40 (km) Đáp số : 40 km Mặc dù học sinh có kết quả đúng nhưng cách diễn đạt ở lời giải thứ nhất sai. Phải nói rõ là quãng đường thì mới đúng. Sai lầm này nếu không được sửa thì sau này ở các bài toán có số phần khác nhau HS sẽ không phân biệt được, lời giải thiếu chính xác sẽ dẫn tới kết quả sai. - Sai lầm khi học sinh không phân biệt được phần nào của bài toán thuộc dạng 1, phần nào của bài toán thuộc dạng 2. Ví dụ: Một giá sách có 3 ngăn: Số sách ở ngăn thứ nhất bằng số sách ở ngăn thứ 3, số sách ở ngăn thứ hai bằng số sách ở ngăn thứ nhất. Biết ngăn thứ ba có nhiều hơn ngăn thứ hai 45 cuốn. Hãy tính số sách ở mỗi ngăn. Khi cho 18 học sinh giải thì cả 15 học sinh chỉ làm được 1 nửa bài với cách làm như sau: Theo đầu bài ra thì số sách ở ngăn thứ ba bằng số sách ngăn thứ nhất Phân số chỉ 45 cuốn sách là: - = (ngăn thứ nhất) Số sách ở ngăn thứ nhất: 45 : = 60 (cuốn) Đến đây 6 học sinh không giải được còn 9 học sinh thì giải tiếp Số sách ở ngăn thứ hai: 60 : = 80 (cuốn) Số sách ở ngăn thứ ba: 60 : = 40 (cuốn) Như vậy là các em chưa phân biệt được 2 dạng và thậm chí còn nghĩ trong 1 bài toán không thể áp dụng cả 2 dạng nên cho rằng tìm số sách ở ngăn thứ hai, thứ ba giống như tìm số sách ở ngăn thứ nhất mà không biết chỉ cần quay lại đề bài và phân tích thành bài toán tìm của 60; tìm của 60 là ra ngay. Tóm lại: Trên đây chỉ là một số những sai lầm mà học sinh thường mắc phải. Tuy nhiên một học sinh có thể mắc sai lầm này, một học sinh lại có thể mắc sai lầm khác vào lúc này hoặc lúc khác thậm chí có thể sai lầm này đan xen sai lầm khác làm cho học sinh giải toán sai. Vì thế để giúp học sinh khắc phục những sai lầm, giáo viên cần đưa ra phương pháp giải thực sự khoa học từ đó học sinh có thể phân dạng được bài tập để biến những bài toán khó trở thành những bài toán đơn giản đã biết cách giải và giải được. Để hiểu rõ hơn điều này, tôi tiếp tục cho học sinh làm bài kiểm tra sau: (Bài kiểm tra làm trong 20 phút) Đề bài: Bài 1: Trong đợt thi đua học tập, ba tổ của lớp 5A đạt được tất cả 120 điểm 10. Trong đó tổ một đạt được số điểm 10 của ba tổ, tổ hai đạt được số điểm 10 của hai tổ kia. Tính số điểm 10 mỗi tổ đạt được. Bài 2: Hai người thợ chia nhau một số tiền công, biết người thứ nhất được số tiền đó, còn người thứ hai được nhận 144.000đồng. Hỏi số tiền mà hai người thợ đem chia nhau là bao nhiêu? Kết quả thu được sau khi chấm bài như sau: Nguyên nhân sai lầm Số bài Tỉ lệ 1. Sai lầm do nắm không vững, không hiểu nội dung bài toán 3 16,7% 2. Trí nhớ máy móc, tư duy chưa linh hoạt 2 11,2% 3. Sai lầm khi không phân biệt được cách giải 2 dạng toán 7 38,7% 4. Sai lầm khi trình bày bài giải 4 22,2% 5. Số bài không sai lầm 2 11,2% Nhìn vào bảng trên ta thấy số lượng bài mắc sai lầm quá nhiều (88,9%) và đa số là nhầm lẫn giữa hai dạng toán cơ bản về phân số vì vậy tôi quyết tâm sẽ giúp HS khắc phục nhược điểm này. 2.3.2. Giải pháp thứ hai: Đề xuất cách giải 2 dạng toán cơ bản về phân số ở dạng tổng quát để học sinh dễ phân biệt và biết cách ra đề bài tương tự: a. Các bước giải. Dù là giải theo phương pháp nào thì việc dạy giải toán của người giáo viên cũng cần phải tiến hành theo một quy tắc nhất định và tuân theo các bước sau: Bước 1: Tìm hiểu nội
Tài liệu đính kèm:
- skkn_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_phan_biet_cach_giai_hai_dang.doc