SKKN Kinh nghiệm giúp học sinh chậm phát triển trí tuệ hòa nhập trong Lớp 1

SKKN Kinh nghiệm giúp học sinh chậm phát triển trí tuệ hòa nhập trong Lớp 1

Theo thống kê năm 2005 của Viện chiến lược và chương trình giáo dục, Việt Nam có hơn 1,2 triệu trẻ khuyết tật chiếm 1,46% dân số, nên nhu cầu được chăm sóc, giáo dục là rất lớn. Mặt khác, việc chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật không chỉ mang tính nhân văn cao cả mà còn đánh dấu mức độ phát triển của toàn xã hội. Chính vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu giáo dục trẻ khuyết tật, giáo dục hòa nhập là sự lựa chọn tối ưu nhất. Mô hình này đã mở ra cho trẻ khuyết tật cơ hội được đi học, được giao lưu, tiếp xúc với mọi người, được phát huy hết khả năng của mình và hòa nhập với xã hội. 

Sau gần 20 năm thực hiện, giáo dục hòa nhập Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể như: đến thời điểm năm 2009 có hơn 450.000 trẻ khuyết tật được học ở các trường phổ thông và con số này tăng lên rất nhanh chóng. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại các trường Tiểu học vẫn còn nhiều hạn chế. Tôi cho rằng có những nguyên nhân sau: phương tiện dạy học đặc thù còn thiếu; hầu hết giáo viên Tiểu học chưa được trang bị kiến thức và kỹ năng về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật; sự hợp tác của gia đình, nhà trường, xã hội chưa cao; chưa có chuyên viên hỗ trợ cho công tác giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại các trường Tiểu học,...

Theo những nghiên cứu ban đầu cho thấy việc cho trẻ chậm phát triển trí tuệ học hòa nhập lớp 1 ở các trường Tiểu học hầu như chưa được quan tâm dẫn đến mức độ hòa nhập, thích nghi của trẻ thấp. Thực trạng này dẫn đến kết quả học tập của trẻ thường yếu và được coi là thành viên cá biệt của lớp. Điều này ngăn cản những nỗ lực hòa nhập của trẻ và ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục hòa nhập nói chung. 

          Từ thực tế trên, một vấn đề cấp thiết đặt ra cho Giáo dục là nghiên cứu và tìm ra những biện pháp giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ học hòa nhập. Bởi môi trường hòa nhập là môi trường thuận lợi nhất cho sự hình thành và phát triển khả năng thích ứng cho trẻ chậm phát triển trí tuệ, giúp trẻ phát huy tối đa tiềm năng học tập, nâng cao khả năng sống độc lập và hội nhập vào xã hội. 

doc 30 trang Mai Loan 13/11/2023 9284
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm giúp học sinh chậm phát triển trí tuệ hòa nhập trong Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
5. Phạm vi nghiên cứu
3
Phần thứ hai : NỘI DUNG
Chương 1: Nội dung lí luận
4
1. Các khái niệm cơ bản
4
 1.1. Trẻ chậm phát triển trí tuệ 
4
 1.2. Giáo dục hòa nhập
5
 1.3. Trường Tiểu học hòa nhập
5
 2. Những đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ chậm phát triển trí tuệ 
5
 2.1. Đặc điểm cảm giác và tri giác
5
 2.2.Đặc điểm phát triển tư duy 
6
 2.3.Đặc điểm phát triển ngôn ngữ 
6
 2.4. Sự phát triển trí nhớ 
7
 2.5 Đặc điểm phát triển tình cảm 
8
3. Nhu cầu và khả năng của trẻ chậm phát triển trí tuệ
9
4. Những nhân tố trong nhà trường hòa nhập. 
10
Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu
11
Chương 3: Mô tả các khảo sát thực trạng
12
Chương 4: Các biện pháp hình giúp cho trẻ chậm phát triển trí tuệ học hòa nhập tại lớp 1
15
1. Nhóm biện pháp hình thành kĩ năng xã hội ở trường học 
15
 1.1. Luyện tập
15
 1.2. Trò chơi
17
 1.3. Xây vòng bạn bè
17
2. Nhóm biện pháp hình thành kĩ năng học đường chức năng 
18
 2.1. Điều chỉnh mục tiêu dạy học
18
 2.2. Sử dụng các phương pháp đặc thù cho trẻ chậm phát triển trí tuệ
18
 2.3.Rèn kĩ năng học đường chức năng thông qua trò chơi học tập 
19
3.Nâng cao nhận thức cho phụ huynh trẻ chậm phát triển trí tuệ về vai trò của họ trong chăm sóc, giáo dục trẻ. 
19
4. Phối hợp với gia đình lên kế hoạch hỗ trợ trẻ chậm phát triển trí tuệ 
20
Chương 5. Kết quả hòa nhập của trẻ chậm phát triển trí tuệ vào cuối các năm học
20
Phần thứ ba: KẾT LUẬN
1. Kết luận
21
2. Khuyến nghị, đề xuất
21
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là một trong những điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Trong đó giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật đang là xu thế tất yếu của thời đại vì nó đáp ứng được: mục tiêu giáo dục; sự gia tăng số lượng trẻ khuyết tật; sự thay đổi quan điểm giáo dục; tính hiệu quả cao; cơ sở pháp lý vững chắc và mang tính kinh tế. Giáo dục hòa nhập không những dựa trên quan điểm xã hội trong việc nhìn nhận, đánh giá đúng trẻ khuyết tật mà còn dựa trên quan điểm tích cực về trẻ khuyết tật. 
Hiện nay ở nước ta trẻ chậm phát triển trí tuệ chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng số trẻ khuyết tật (trẻ chậm phát triển trí tuệ chiếm gần 30% số lượng trẻ khuyết tật nói chung – theo nghiên cứu của Viện Chiến lược và chương trình giáo dục). Đây cũng là nhóm trẻ gặp nhiều khó khăn nhất so với các nhóm trẻ mắc khuyết tật khác.
Một trong những khó khăn mà trẻ chậm phát triển trí tuệ gặp phải đó là khả năng thích ứng với xã hội rất hạn chế. Hạn chế này đã ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình học tập, nhận thức của các em, đặc biệt cản trở quá trình các em hội nhập vào cộng đồng. Vì vậy cần có những nghiên cứu khoa học nhằm tìm ra những biện pháp giúp cho trẻ chậm phát triển trí tuệ có thế sống độc lập và hoà nhập.
Bước vào trường Tiểu học là một bước ngoặt lớn trong đời sống của đứa trẻ. Ở độ tuổi lớp 1, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ có nhiều biến đổi. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động học tập, một hoạt động mang tính chất tập thể với những yêu cầu, nội quy được định sẵn. Vì vậy nhiệm vụ chính của lớp 1 là hình thành những thói quen mới nhằm giúp trẻ thích ứng với những yêu cầu của trường lớp, tạo nền tảng cho các lớp học tiếp theo.
Thực tế đã cho thấy sự hình thành và phát triển của trẻ chậm phát triển trí tuệ muộn và chậm hơn so với trẻ bình thường cùng độ tuổi. Chính điều này gây cản trở cho trẻ trong việc lĩnh hội tri thức, hòa nhập với bạn bè cùng trang lứa.Bởi vậy, giáo viên cần có những biện pháp thích hợp cho trẻ chậm phát triển trí tuệ phù hợp với đặc điểm cá nhân trẻ ngay từ lớp 1.
Thực tế giáo dục đã chứng minh: Mô hình giáo dục hòa nhập được coi là giải pháp hữu hiệu nhất đảm bảo cho trẻ khuyết tật nói chung, trẻ chậm phát triển trí tuệ nói riêng quyền được giáo dục, quyền được tham gia mọi hoạt động xã hội, giúp trẻ có cơ hội tiếp thu kiến thức, để trẻ có thể sống độc lập và hòa nhập với cộng đồng. 
Ở trường hòa nhập, trẻ chậm phát triển trí tuệ được tiếp xúc với nhiều bạn bè, thầy cô và được làm quen với các chuẩn mực xã hội mới. Qua đó, các em dần hình thành các kĩ năng thích ứng thông qua các mối quan hệ xã hội. Những kĩ năng này giúp ích cho sự phát triển bình thường của trẻ. Việc hình thành cho trẻ kĩ năng xã hội, học đường chức năng,  giúp trẻ phát huy tối đa tiềm năng học tập, đồng thời nâng cao được khả năng sống độc lập và hội nhập vào xã hội của trẻ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Theo thống kê năm 2005 của Viện chiến lược và chương trình giáo dục, Việt Nam có hơn 1,2 triệu trẻ khuyết tật chiếm 1,46% dân số, nên nhu cầu được chăm sóc, giáo dục là rất lớn. Mặt khác, việc chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật không chỉ mang tính nhân văn cao cả mà còn đánh dấu mức độ phát triển của toàn xã hội. Chính vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu giáo dục trẻ khuyết tật, giáo dục hòa nhập là sự lựa chọn tối ưu nhất. Mô hình này đã mở ra cho trẻ khuyết tật cơ hội được đi học, được giao lưu, tiếp xúc với mọi người, được phát huy hết khả năng của mình và hòa nhập với xã hội. 
Sau gần 20 năm thực hiện, giáo dục hòa nhập Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể như: đến thời điểm năm 2009 có hơn 450.000 trẻ khuyết tật được học ở các trường phổ thông và con số này tăng lên rất nhanh chóng. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại các trường Tiểu học vẫn còn nhiều hạn chế. Tôi cho rằng có những nguyên nhân sau: phương tiện dạy học đặc thù còn thiếu; hầu hết giáo viên Tiểu học chưa được trang bị kiến thức và kỹ năng về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật; sự hợp tác của gia đình, nhà trường, xã hội chưa cao; chưa có chuyên viên hỗ trợ cho công tác giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại các trường Tiểu học,...
Theo những nghiên cứu ban đầu cho thấy việc cho trẻ chậm phát triển trí tuệ học hòa nhập lớp 1 ở các trường Tiểu học hầu như chưa được quan tâm dẫn đến mức độ hòa nhập, thích nghi của trẻ thấp. Thực trạng này dẫn đến kết quả học tập của trẻ thường yếu và được coi là thành viên cá biệt của lớp. Điều này ngăn cản những nỗ lực hòa nhập của trẻ và ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục hòa nhập nói chung. 
 	Từ thực tế trên, một vấn đề cấp thiết đặt ra cho Giáo dục là nghiên cứu và tìm ra những biện pháp giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ học hòa nhập. Bởi môi trường hòa nhập là môi trường thuận lợi nhất cho sự hình thành và phát triển khả năng thích ứng cho trẻ chậm phát triển trí tuệ, giúp trẻ phát huy tối đa tiềm năng học tập, nâng cao khả năng sống độc lập và hội nhập vào xã hội. 
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Kinh nghiệm giúp học sinh chậm phát triển trí tuệ hòa nhập trong lớp 1”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng trẻ chậm phát triển trí tuệ học hòa nhập tại trường Tiểu học Cát Linh, trên cơ sở đó rút ra các kinh nghiệm trẻ chậm phát triển trí tuệ học hòa nhập.
3. Đối tượng nghiên cứu
	Học sinh chậm phát triển trí tuệ lớp 1B và các hoạt động hòa nhập của các em trong lớp học của mình.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
 + Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện
Nhằm thu thập thêm các thông tin về học sinh, phương pháp hình thành và rèn luyện hành vi thích ứng cho học sinh, hoàn cảnh của học sinh, ... 
Nội dung: Chuẩn bị các nội dung cần trao đổi về: khả năng nhu cầu học sinh chậm phát triển trí tuệ, mức độ kĩ năng thích ứng của học sinh ... 
Đối tượng: Giáo viên, phụ huynh học sinh ...
 + Phương pháp quan sát
Thu thập thêm các thông tin nhằm chính xác hoá về mức độ hòa nhập của học sinh chậm phát triển trí tuệ. 
Nội dung: ghi chép tiến trình lên lớp, quan sát cách giáo viên hỗ trợ trẻ
chậm phát triển trí tuệ, theo dõi sự tham gia các hoạt động của trẻ chậm phát triển trí tuệ trong lớp hoà nhập. 
Đối tượng: Giáo viên, học sinh chậm phát triển trí tuệ.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
5. Phạm vi nghiên cứu:
2 học sinh chậm phát triển trí tuệ trong lớp 1B trường Tiểu học Cát Linh ở các năm học 2012- 2013 và 2013 - 2014
Phần thứ hai: NỘI DUNG
Chương 1: Nội dung lí luận
1 Các khái niệm cơ bản
1.1. Trẻ chậm phát triển trí tuệ 
Trẻ chậm phát triển trí tuệ được định nghĩa khác nhau theo các tiêu chí khác nhau: theo kết quả trắc nghiệm trí tuệ IQ, theo mức độ thích ứng xã hội, theo nguyên nhân, theo quan ñiểm tổng hợp. 
Theo kết quả trắc nghiệm trí tuệ IQ: A.Binet và T.Simon, 1905 đã công bố “trắc nghiệm trí tuệ” nhằm phân biệt trẻ học kém bình thường và học kém do chậm phát triển trí tuệ. Tuy nhiên nó bộc lộ vô vàn những nhược điểm: Đó là chỉ số IQ không phản ánh hết tiềm năng trí tuệ; IQ không tỷ lệ thuận với khả năng thích ứng; do IQ bị chi phối bởi yếu tố văn hóa, điều kiện xã hội dẫn đến không chính xác.
Theo mức độ thích ứng xã hội: Benda, Mỹ, năm 1954 đã đưa ra khái niệm 
chậm phát triển trí tuệ theo tiêu chí. Theo cách tiếp cận này cũng có những nhược điểm nhất định như sau: Có người gặp khó khăn ở môi trường này nhưng không ở môi trường khác (yếu tố văn hóa); Tiêu chí thích ứng khá mờ; Sự kém thích ứng có thể có nguyên nhân khác ngoài chậm phát triển trí tuệ. 
Theo nguyên nhân: Luria, nhà tâm lý học người Nga, 1966 đưa ra cách tiếp cận này. Tuy nhiên, theo cách tiếp cận này cũng có những hạn chế nhất định: đó là một số người chậm phát triển trí tuệ nhưng không phát hiện được những tổn thương, khiếm khuyết trong hệ thần kinh của họ. 
 	Chính vì những hạn chế trên, ngày nay người ta tiếp cận theo quan điểm tổng hợp. Hiệp hội Chậm phát triển Tâm thần Mĩ (AAMR) và Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần IV (DSM-IV) có định nghĩa trẻ chậm phát triển trí tuệ theo cách tiếp cận này. 
Ở Việt Nam sử dụng khái niệm chậm phát triển trí tuệ của DSM-IV và của AAMR
Theo Hiệp hội Chậm phát triển Tâm thần Mĩ (AAMR), 2002 cho rằng: 
chậm phát triển trí tuệ là loại khuyết tật được xác định bởi hạn chế đáng kể về hoạt động trí tuệ và hành vi thích ứng thể hiện ở kĩ năng nhận thức, xã hội và kĩ năng thích ứng thực tế; khuyết tật xuất hiện trước 18 tuổi. 
 	Theo Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần IV (DSM-IV), tiêu chí chẩn đoán bao gồm: 
- Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình, tức là chỉ số trí tuệ đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần trắc nghiệm cá nhân. 
- Bị thiếu hụt hoặc ít nhất hai trong số những lĩnh vực hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia ñình, các kỹ năng xã hội/liên cá nhân, sử dụng các phương tiện trong cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học đường chức năng, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn. 
 	- Hiện tượng chậm phát triển trí tuệ xuất hiện trước 18 tuổi. 
 Hai khái niệm này đã cung cấp những hướng dẫn cụ thể cho việc xác định những dấu hiệu đặc trưng của tật chậm phát triển trí tuệ theo quan điểm đo lường và thống nhất trong 3 tiêu chí để xác định một trẻ chậm phát triển trí tuệ là: Hạn chế về trí thông minh, khả năng thích ứng và tật xuất hiện trước 18 tuối.
1.2 Giáo dục hòa nhập 
Giáo dục hoà nhập là “Hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù hợp tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội”.
1.3 Trường Tiểu học hoà nhập 
“Là tổ chức giải quyết vấn đề đa dạng nhằm chú trọng việc học của trẻ. Mọi giáo viên, cán bộ và nhân viên nhà trường cam kết làm việc cùng nhau tạo ra và duy trì môi trường đầm ấm có hiệu quả cho việc học tập. Trách nhiệm cho mọi trẻ được chia sẻ”.
2. Những đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ chậm phát triển trí tuệ
2.1.Đặc điểm cảm giác và tri giác 
Trẻ em chậm phát triển trí tuệ tri giác các đối tượng chậm hơn trẻ bình thường, trong một thời gian nhất định thì khối lượng các em này quan sát được ít hơn so với trẻ bình thường( khoảng 40% so với trẻ bình thường). Điều đó nói lên rằng tri giác thị giác của trẻ phát triển rất hạn chế, trẻ không có khả năng phân biệt, bắt chước các hình dạng. Trẻ bình thường, khi quan sát chỉ liếc mắt nhìn là nhận biết ngay được đối tượng, còn trẻ chậm phát triển trí tuệ phải nhìn kĩ, nhìn liên tục, nhìn lần lượt từng chi tiết mới nhận biết được đối tượng. Có những trường hợp, trẻ không thể nhận biết được đối tượng ngay cả khi có sự hỗ trợ của người lớn. 
 Như vậy, trẻ chậm phát triển trí tuệ vẫn có khả năng tri giác nhưng sự tri giác đó hạn chế trong phạm vi hẹp. Tất cả những điều đó đều gây khó khăn cho sự định hướng của trẻ trong hoàn cảnh mới, làm cho tốc độ học tập chậm hơn các trẻ khác. 
- Khó khăn trong việc phân biệt hóa.
- Thiếu tính tích cực trong quá trình tri giác.
Biện pháp tốt nhất để phát triển cảm giác và tri giác của trẻ chậm phát triển trí tuệ là tăng cường sức khoẻ, nghỉ ngơi tích cực, chế độ làm việc và học tập hợp lý, tổ chức các hoạt động vui chơi bổ ích. Các em phải được đến trường học tập, được chơi với các bạn trong môi trường giáo dục bình thường. Hoạt động vui chơi và hoạt động trong nhà trường sẽ giúp cho sự phát triển về cảm giác và tri giác của trẻ được tốt hơn. Điều này được thể hiện rất rõ, học sinh các lớp lớn bao giờ cũng có cảm giác và tri giác tốt hơn các học sinh lớp bé, học sinh đã đi học có cảm giác tốt hơn nhiều so với trẻ chưa đi học. Đồng thời cần áp dụng biện pháp tổ chức các hoạt động ngoài trời nhà trường như: 
• Tham quan các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, bảo tàng 
• Tổ chức quan sát thiên nhiên, động, thực vật, các hoạt động khác nhau của con người. 
• Các em đọc truyện cho nhau nghe, cùng xem tranh, ca múa nhạc. 
• Tổ chức các trò chơi tập thể. 
Các hoạt động trên sẽ làm phong phú kinh nghiệm sống, mở rộng tầm hiểu biết về các biểu tượng, khái niệm; là phương tiện chủ yếu làm tốt hơn chất lượng cảm giác và tri giác của các em.
2.2.Đặc điểm phát triển tư duy 
 	Nhà bác học L.X.Vưgốtxki đã có những nhận xét và đề xuất phương hướng phát triển tư duy cho trẻ chậm phát triển trí tuệ mang ý nghĩa và nội dung vô cùng quan trọng đối với những người làm công tác giáo dục. Theo ông trẻ chậm phát triển trí tuệ có khả năng tư duy trừu tượng kém, từ đó các nhà sư phạm đã đưa ra kết luận có vẻ như là đúng đắn rằng trong việc dạy học cho nhóm trẻ này cần phải dựa vào tính trực quan. Như vậy có nghĩa là hệ thống dạy học hoàn toàn dựa trên tính chất trực quan. Việc làm này chẳng những không giúp trẻ khắc phục được những khiếm khuyết tự nhiên, mà còn củng cố thêm 
khiếm khuyết ấy, làm cho trẻ hoàn toàn quen với tư duy trực quan, và chôn sâu những mầm mống yếu ớt của tư duy trừu tượng có ở những trẻ em này. Điều đó cho chúng ta thấy được rằng, trong quá trình dạy học các nhà sư phạm đã chỉ dựa vào điểm yếu của trẻ chậm phát triển trí tuệ và thúc đẩy chúng đi theo hướng đó, phát triển ở trẻ chính các khuyết tật mà chúng mắc phải. Như vậy, trẻ sẽ vĩnh viễn mất đi cơ hội phát huy những khả năng còn lại của mình.
 	Để dạy được cách khái quát cần phải sử dụng các phương tiện đặc biệt trong dạy học. Giáo viên phải hiểu rõ môi trường, năng lực và sự hạn chế của đứa trẻ, tìm cách vứt bỏ dần các biểu tượng cụ thể, riêng lẻ, tiến đến mức độ nhận thức cao hơn, đó là khái quát, tư duy bằng ngôn ngữ; phải cải tiến nội dung và phương pháp dạy học, nhằm mục đích phát triển tư duy lôgic và tưởng tượng sáng tạo; vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học nhưng phải có giới hạn, không được lạm dụng; tập cho các em quen dần cách phân tích sự vật, hiện tượng, cách khái quát và rút ra kết luận; luyện tập báo cáo lại những gì đã nghe, đã thấy, đã làm và ý nghĩa của nó; đọc truyện, tham quan, quan sát là những hình thức tổ chức hoạt động để phát triển tư duy cho trẻ; chọn các loại truyện giúp cho sự phát triển tư duy cho trẻ, như truyện tranh liên hoàn, trả lời các câu đố, giúp cho trẻ phát triển tư duy để học tập có kết quả các môn học phổ thông. 
2.3.Đặc điểm phát triển ngôn ngữ 
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của trẻ ở lứa tuổi mầm non là nắm vững tiếng mẹ đẻ như là phương tiện và khả năng giao tiếp của con người, phương tiện nhận thức. Chính ở lứa tuổi này đứa trẻ có khả năng nắm được lời nói. Nếu như trẻ không nắm được tiếng mẹ đẻ ở một mức nhất định vào độ tuổi 5-6 thì nó cũng không thể nói lưu loát được ở độ tuổi sau đó. 
 	Tuy nhiên, qua việc quan sát kĩ các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng ngôn ngữ trẻ em chậm phát triển trí tuệ chậm hơn trẻ bình thường cùng độ tuổi. Những trẻ này, khi đến tuổi đi học có vốn từ ít. Trẻ chậm phát triển trí tuệ ít dùng những câu phức tạp, ít dùng liên từ các em cũng rất khó khăn khi cần tìm những từ diễn tả ý nghĩ của mình và thường trả lời cộc lốc. Trẻ chậm phát triển trí tuệ thường không hiểu được những từ ngữ có tính chất trừu tượng, đặc biệt là trẻ rất khó nắm bắt những khái niệm về các sự vật và hiện tượng xung quanh. 
	Những trẻ bị chấn thương não thường chóng mệt mỏi, thiếu chú ý nên khi viết thường rất cẩu thả, chữ nguệch ngoạc, nhiều lỗi chính tả. Đối với những trẻ này giáo viên cần kiên trì giúp đỡ thì mới hình thành được hành động viết. 
Phát triển ngôn ngữ ở trẻ được tiến hành trong quá trình hoạt động ở tất cả các dạng khác nhau: trong đời sống hàng ngày, trong giao tiếp với các thành viên trong gia đình và trong các giờ học đặc biệt về phát triển lời nói. Trong các bài học về luyện tập cảm giác, hình thành tư duy đã tạo dựng ở trẻ những hình tượng khái niệm thích hợp của thực tiễn xung quanh; lĩnh hội ngôn từ và biểu đạt thuộc tính tính chất của vật thể, hình thành mối quan hệ nhân quả. Tất cả kinh nghiệm xã hội, tình cảm lĩnh hội được sẽ được củng cố và khái quát trong ngôn từ và chính lời nói sẽ nhận được cơ sở nội dung thích hợp. 
Có thể giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ phát triển ngôn ngữ bằng nhiều cách khác nhau nhưng hướng chung là: 
+ Tổ chức giáo dục sớm cho trẻ 
 	+ Cho trẻ đến trường học hoà nhập với bạn bè bình thường. 
 	+ Nhà trường cần tổ chức đa dạng các loại hoạt động trong và ngoài lớp. Đó là môi trường phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và là điều kiện cho trẻ phát triển tư duy. 
 	+ Nhà trường phối hợp với gia đình giúp đỡ trẻ bằng cách tăng cường giao tiếp, chú ý sửa lỗi phát âm; động viên trẻ luyện tập viết. 
2.4. Sự phát triển trí nhớ 
 	Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận xét chung là trẻ chậm phát triển trí tuệ thường rất khó khăn trong việc ghi nhớ tài liệu học tập, nếu không có sự luyện tập thường xuyên thì trẻ sẽ quên hết mọi kiến thức đã học. Đó là hiện tượng chậm nhớ, chóng quên ở những trẻ này. 
 	Quá trình ghi nhớ không chỉ phụ thuộc vào nội dung, tính chất của đối tượng cần nhớ, mà còn phụ thuộc vào động cơ, mục đích và phương thức hành động cá nhân. 
Trẻ chậm phát triển trí tuệ ghi nhớ máy móc tốt hơn ghi nhớ có ý nghĩa, chẳng hạn, do chỉ nhớ dấu hiệu bên ngoài gần giống nhau. Cũng do yếu về tư duy nên trẻ chậm phát triển trí tuệ có sự hạn chế về khả năng tìm ra những dấu hiệu cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng cần nhớ, đặc biệt là trong hoạt động học tập, trẻ chậm phát triển trí tuệ rất khó khăn trong việc ghi nhớ những kiến thức. Từ đó, chất lượng trí nhớ của trẻ bị suy giảm nhiều và việc trẻ nhớ gián tiếp sẽ khó khăn hơn nhớ trực tiếp. Nghiên cứu sự phát triển về trí nhớ hình ảnh của trẻ chậm phát triển trí tuệ các nhà tâm lý nhận thấy trí nhớ hình ảnh của trẻ cũng rất hạn chế. Ví dụ, khi cho trẻ xem một bảng lớn có vẽ 9 -10 đồ vật khác nhau và yêu cầu trẻ hãy nhớ vị trí của những đồ vật đó (thời gian xem là 5 phút). Sau đó, cất bảng đi và đặt câu hỏi cho trẻ “Trong bảng có vẽ những hình gì?” Trẻ chỉ nêu được 3 hình vẽ trong bảng. 
Ngoài ra, về trí nhớ ngôn ngữ của trẻ cũng gặp không ít những khó khăn, trẻ chỉ có thể ghi nhớ được 4-5 từ trong tổng số 10 từ mà cô giáo đọc cho trẻ nghe trong 6 lần với tốc độ đọc là mỗi từ một giây. 
 	Phát triển trí nhớ và khắc phục sự quên cho các em chậm phát triển trí tuệ là một việc hết sức khó khăn, phức tạp. Để khắc phục dần những khó khăn cho trẻ chậm phát triển trí tuệ trong việc ghi nhớ, cần phải có các biện pháp đặc thù trong việc giáo dục và dạy dỗ trẻ. Trong tất cả các 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_cham_phat_trien_tri_tue_hoa_n.doc