SKKN Kinh nghiệm dạy học văn từ góc độ tiếp cận văn hóa học (qua ví dụ nghiên cứu, giảng dạy trích đoạn “nỗi thương mình” trong truyện Kiều của Nguyễn Du)

SKKN Kinh nghiệm dạy học văn từ góc độ tiếp cận văn hóa học (qua ví dụ nghiên cứu, giảng dạy trích đoạn “nỗi thương mình” trong truyện Kiều của Nguyễn Du)

Nhiều năm trở lại đây vấn đề dạy văn và học văn trong nhà trường đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của xã hội và tốn không biết bao giấy mực của báo chí, các nhà nghiên cứu, công sức của các thầy cô giáo. Chung quy lại thì, ai cũng nhận ra, nhìn thấy cần phải đổi mới dạy văn nhưng cụ thể đổi đến đâu và như thế nào thì vẫn còn nhiều chuyện đáng bàn.

1.1.1. Xét cho cùng mọi phương pháp dạy học văn học đều liên quan đến việc sáng tác văn học và đọc văn bản nghệ thuật. Có nhiều cách đọc văn bản, tùy theo lý thuyết được người đọc lựa chọn. Trước đây, ở nước ta xu hướng nghiên cứu, tiếp cận văn học theo lập trường xã hội học một thời gian dài được chú trọng. Nhà nghiên cứu hình thức học lại quan tâm đến cấu trúc hình thức của tác phẩm. Xem văn bản nghệ thuật như một hệ thống có giá trị nội tại, khép kín. Người ta gọi những người nghiên cứu theo xu hướng này là nhà Thi pháp học.Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm nghệ thuật, giữa các lý thuyết nghiên cứu vẫn có mối quan hệ gắn bó với nhau, không có phương pháp nào là độc tôn, không có sự phân tách tuyệt đối khi nghiên cứu văn bản nghệ thuật.

 

docx 23 trang thuychi01 10510
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm dạy học văn từ góc độ tiếp cận văn hóa học (qua ví dụ nghiên cứu, giảng dạy trích đoạn “nỗi thương mình” trong truyện Kiều của Nguyễn Du)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
I. Mở đầu
1
 Lí do chọn đề tài
1
 Mục đích nghiên cứu
3
 Đối tượng nghiên cứu
4
 Phương pháp nghiên cứu
4
II. Nội dung nghiên cứu
4
Cơ sở lí luận
4
Sơ lược về khái niệm văn hóa
4
Cách tiếp cận văn hóa học
5
Thực trạng của vấn đề
7
Phương pháp tiếp cận văn hóa học qua đoạn trích Nỗi thương mình
10
Vị trí đoạn trích
10
Phân tích đoạn trích từ góc độ văn hóa học với hai khái niệm Thân và Tâm
12
Tâm trạng, nỗi đau của Thúy Kiều trong đoạn trích và những nét văn hóa trong thưởng thức nghệ thuật, thú chơi tao nhã của người xưa
17
Kết quả thu được và bài học kinh nghiệm
20
Kết quả thu được
20
Bài học kinh nghiệm
20
III. Kết luận
21
Tài liệu tham khảo
22
KINH NGHIỆM DẠY HỌC VĂN TỪ GÓC ĐỘ TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC
(QUA VÍ DỤ NGHIÊN CỨU, GIẢNG DẠY TRÍCH ĐOẠN “NỖI THƯƠNG MÌNH” TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỀN DU)
Giáo viên: Lê Thị Hằng
Trường THPT Nông Cống II
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Nhiều năm trở lại đây vấn đề dạy văn và học văn trong nhà trường đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của xã hội và tốn không biết bao giấy mực của báo chí, các nhà nghiên cứu, công sức của các thầy cô giáo. Chung quy lại thì, ai cũng nhận ra, nhìn thấy cần phải đổi mới dạy văn nhưng cụ thể đổi đến đâu và như thế nào thì vẫn còn nhiều chuyện đáng bàn.
1.1.1. Xét cho cùng mọi phương pháp dạy học văn học đều liên quan đến việc sáng tác văn học và đọc văn bản nghệ thuật. Có nhiều cách đọc văn bản, tùy theo lý thuyết được người đọc lựa chọn. Trước đây, ở nước ta xu hướng nghiên cứu, tiếp cận văn học theo lập trường xã hội học một thời gian dài được chú trọng. Nhà nghiên cứu hình thức học lại quan tâm đến cấu trúc hình thức của tác phẩm. Xem văn bản nghệ thuật như một hệ thống có giá trị nội tại, khép kín. Người ta gọi những người nghiên cứu theo xu hướng này là nhà Thi pháp học.Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm nghệ thuật, giữa các lý thuyết nghiên cứu vẫn có mối quan hệ gắn bó với nhau, không có phương pháp nào là độc tôn, không có sự phân tách tuyệt đối khi nghiên cứu văn bản nghệ thuật.
Có nhiều phương pháp tiếp cận tác phẩm khác nhau: tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ học, từ cấu trúc, thi pháp học, xã hội học vv Trong phạm vi bài này, người viết có một vài kinh nghiệm khi nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn chương từ góc độ tiếp cận Văn hóa học. Đây là phương pháp tiếp cận văn bản tác phẩm nghệ thuật ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa trong đó tác phẩm văn học đã ra đời.Xác lập sự chi phối của các quan điểm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thuần phong mỹ tụccũng như quan niệm về con người và sự chi phối của các phương diện khác nhau trong đời sống, sinh hoạt xã hội từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm, về các mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, hình tượng nghệ thuật, cảm xúc nghệ thuật, sử dụng ngôn ngữPhương pháp nghiên cứu giảng dạy từ góc độ văn hóa học mang tính tổng hợp, trung gian giữa các phương pháp đọc văn bản khác nhau, nhưng vẫn có những đặc trưng riêng, phù hợp với xu hướng tìm hiểu tác phẩm nghệ thuật.
1.1.2. Trong nhà trường THPT hiện nay, một thực tế khách quan là học sinh không thích học văn, đọc văn. Tại sao như vậy? Có nhiều nguyên nhân khác nhau:
Một là, xu thế chọn trường, chọn nghề sau khi tốt nghiệp THPT của học sinh thường là khối A,B, các em thi vào các trường thuộc khối kinh tế, kỹ thuật, thương mại hơn là các ngành nghề thuộc khối xã hội 
Hai là, trong xu thế hiện đại, các tài liệu thông tin phong phú, tài liệu nghiên cứu tác phẩm văn học phổ biến, nhiều em không biết nội dung tác phẩm như thế nào nhưng lại đọc các bài viết phê bình, đánh giá tác phẩm ấy trước. Các loại sách, tài liệu: Để học tốt môn văn, bài văn mẫu, bài văn chọn lọc, bài gợi ý tìm hiểu vvphổ biến trong thư viện, trên những quày bán sách báo và các trang web. Vì vậy, không cần nghiên cứu, tiếp cận văn bản tác phẩm các em vẫn làm bài văn, vẫn “như là hiểu tác phẩm nghệ thuật” dẫn đến tình trạng nhàm chán khi lên lớp học văn. Gần đây, trên mạng Internet có đăng một bài thơ “Tóm tắt truyện Kiều” của một học sinh chuyên toán đã cho thấy rõ điều đó. Không cần đọc tác phẩm vẫn tóm tắt được tác phẩm văn chương!?
Ba là, một số thầy cô giáo dạy văn lên lớp giảng dạy, chưa thật sự tìm tòi, sáng tạo, vẫn dạy theo lối “sáo mòn” “như sách” dẫn đến các em nghe giảng đã “biết rồi, khổ lắm nói mãi” cho nên học sinh cũng chán học môn văn. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
Từ những lí do nêu trên, người viết đề xuất một phương pháp nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn học (Đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du) từ góc độ văn hóa học. Đây là một trong những phương pháp tiếp cận tác phẩm văn chương hấp dẫn, tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học văn mà người viết bài này đã thử nghiệm và tương đối thành công. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Truyện Kiều và đoạn trích “Nỗi thương mình” trong chương trình lớp 10 THPT. Tôi tiến hành giảng dạy ở các lớp 10 A1 và 10 A5 trường THPT Nông Cống 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích yêu cầu như trên, tôi đã sử dụng một số phương pháp tiếp cận văn hoá học như sau: 
- Phương pháp tái hiện: Đối với văn học trung đại cần phục nguyên tái hiện không gian văn hoá cũng như những nhân tố thời đại tác động.
- Phương pháp đối chiếu, liên hệ: Tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm với văn hoá thời đại.
- Xác định cơ sở văn hoá xã hội đã hình thành nên tác phẩm (đề tài, chủ đề, hình thức nghệ thuật, cách cảm nhận, mọi yếu tố cấu thành tác phẩm...)
- Phương pháp thuyết trình: trong quá trình tìm hiểu văn bản, giáo viên kết hợp với học sinh bình giảng về số phận, cuộc đời, nỗi đau, sự bất hạnhThúy Kiều, từ đó học sinh khắc sâu kiến thức của bài học đồng thời bổ trợ cho các em khi làm bài tập tự luận.
- Tôi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm ở một số câu hỏi khó, đọc diễn cảm, dựng lại cuộc đời của Thúy Kiều trước và sau khi bị “Bán mình”  nhằm mục đích phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, từ đó các em tự mình chiếm lĩnh kiến thức của văn bản, hiểu được nỗi đau của Thúy Kiều ở lầu xanh của Tú bà trong đoạn trích.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận
1.1. Sơ lược về khái niệm văn hóa 
Văn hóa là sản phẩm của cộng đồng người, tồn tại và phát triển gắn liền với cộng đồng người ấy trong suốt chiều dài lịch sử. Mỗi một cộng đồng người du có lạc hậu đến đâu vẫn có văn hóa của riêng mình. Nói văn hóa là nói đến sự sáng tạo của con người từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất trên mọi lĩnh vực sinh tồn. Theo Các phương diện chính sách văn hóa Canadda – Unesco 1997 – bản tiếng Pháp, người ta đã thống kê được 256 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Có những định nghĩa nói về chức năng của văn hóa, có những định nghĩa thiên về dân tộc học, xã hội học, tâm lí học, nhân học Tùy cách tiếp cận mà các tác giả có những định nghĩa khác nhau về văn hóa. 
Tổ chức văn hoá giáo dục khoa học của Liên Hợp quốc đã đưa ra một định nghĩa văn hoá như sau: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống giá trị, truyền thống, thị hiếu, những đặc tính riêng của mỗi dân tộc”Tạp chí thông tin Unesco số 2 – 1988, trang 5
.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2000, tập 3, trang 431
1.2. Văn hóa học
Văn hóa học là một bộ môn khoa học tương đối mới, nó nghiên cứu văn hóa nói chung và các hiện tượng văn hóa riêng biệt như văn hóa gia đình, tôn giáo, nghệ thuật, lối sống, chính trị, kinh tế, giáo dục v.v.. Theo quan niệm của V.M. Rodin - nhà văn hóa học Nga cho rằng, Văn hóa học là một khoa học nhân văn, từ đó tạo ra nghịch lý là không có một Văn hóa học thuần tuý. Có bao nhiêu nhà Văn hóa học thì cũng có bấy nhiêu định nghĩa văn hóa, mỗi khuynh hướng Văn hóa học đều quy định cách tiếp cận về đối tượng của mình. Mặc dù vậy, các nhà khoa học về văn hóa đều hướng đến việc xây dựng tri thức Văn hóa học theo hướng tiếp cận liên ngành, cách tiếp cận này có thể giao tiếp được các ngành học với nhau trong quá trình nghiên cứu. Có thể nói, cùng với triết học, sử học, các khoa học về văn hóa và phương pháp luận khoa học, Văn hóa học thể hiện với tư cách là cơ sở của các khoa học nhân văn.
Người đầu tiên mở đường cho nghiên cứu khoa học về văn hóa là Edward B.Tylor với tác phẩm nổi tiếng “Văn hóa nguyên thủy”. Cho đến gần 40 năm sau, từ khi cuốn sách “Văn hóa nguyên thuỷ” ra đời, năm 1909 thuật ngữ Văn hóa học mới được khẳng định bởi Willhelm Ostwald – nhà khoa học và triết học Đức. Thuật ngữ này dùng chỉ cho môn học mới mà ông gọi là “Khoa học về các hoạt động văn hóa, tức là hoạt động đặc biệt của con người”.
Khi nói về bộ môn Văn hóa học, các nhà khoa học về văn hóa cho rằng, có ba định hướng nhận thức cơ bản là: Văn hóa học triết học, Văn hóa học lịch sử và Văn hóa học lý thuyết.
Vì thế, trong các khoa học về văn hóa, cho đến nay, đã có sự đóng góp của nhiều môn học khác nhau như: dân tộc chí, dân tộc học, nhân học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học, ký hiệu học v.v.. mà trước hết và chủ yếu là hai môn: Nhân học và Xã hội học. Tất cả các môn học này, từ nhiều khía cạnh khác nhau, chúng nghiên cứu các hiện tượng văn hóa cũng bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau.   
Trong thực tế, có nhiều bộ môn khoa học cùng nghiên cứu văn hóa dưới nhiều góc độ khác nhau, song không loại trừ nhau, từ đó Văn hóa học đã ra đời. Có thể nói, Văn hóa học được xem là môn học mang tính xuyên/ liên ngành – một khoa học tích hợp bao quát nhiều bộ môn nghiên cứu chuyên biệt về văn hóa. Đây là một phương hướng nghiên cứu lý luận bao gồm phương pháp luận và bộ máy phân tích của Triết học văn hóa, Lịch sử văn hóa, Nhân học văn hóa và Xã hội học văn hóa.
Khác với phần lớn các ngành học thuộc khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu mọi lĩnh vực trong hoạt động đời sống của con người, được phân biệt theo đối tượng đặc thù của hoạt động như: kinh tế, chính trị, quân sự, giáo dục, nghệ thuật v.v.. và các khoa học khác, Văn hóa học thuộc về nhóm các khoa học nghiên cứu với tư cách khách thể tất cả các hình thức và thể loại thực hành, có mục đích trong hoạt động sống của con người. Nhóm này bao gồm các khoa học Lịch sử, Tâm lý học, Xã hội học, Nhân học v.v... văn hóa là một lĩnh vực rất rộng và hết sức trừu tượng. Theo nhà giáo Đoàn Văn Chúc thì văn hóa là cái “vô sở bất tại”, muốn hiểu biết về văn hóa cần phải đứng ở nhiều góc độ khác nhau để có thể nhận thức về nó một cách đầy đủ và toàn diện.
      Con người không chỉ có hình hài, còn có cả một đời sống xã hội và cá nhân vô cùng phức tạp. Văn hóa học đã không dừng lại nghiên cứu con người sinh học đơn thuần, mà còn được mở rộng sang các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
      Con người ở đây được coi như là sự tổng hoà các mối quan hệ trong đời sống xã hội, mà con người với tư cách là chủ thể sáng tạo và là tạo vật của văn hóa.
      Khi nghiên cứu các khái niệm con người văn hóa - xã hội thì nhận thấy các khái niệm này đã có tính liên ngành, chẳng hạn con người chỉ có thể tồn tại trong những điều kiện xã hội và văn hóa nhất định, nhưng con người cũng là chủ thể sáng tạo ra những giá trị văn hóa và giá trị xã hội. Và xã hội là những nhóm người được tổ chức lại theo một định chế chung đồng thời cũng bị quy định bởi một nền văn hóa chung. Còn văn hóa là những kết quả sau cùng, những giá trị chuẩn mực xã hội được sáng tạo bởi các thành viên xã hội.
Nói chung, Văn hóa học là những khoa học về văn hóa, nghiên cứu đời sống xã hội và hoạt động của con người, cùng những sáng tạo văn hóa của nhân loại trong lịch sử.
2.Thực trạng của vấn đề
Trong lịch sử nghiên cứu văn học ở nước ta, nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ văn hóa học đang còn ít. Tác phẩm tiêu biểu nhất tiếp cận từ góc độ văn hóa là “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa” của PGS,TS Trần Nho Thìn. GS Phan Ngọc có tác phẩm “Văn học xét theo văn hóa học” và tác phẩm “Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” vvCó thể nói, dù nhiều vấn đề văn học đã được nhìn từ góc độ văn hóa học, nhưng vẫn còn một số phương diện văn hóa tiềm ẩn hệ thống đề tài, hình tượng nhân vật, ngôn từ của tác phẩm văn học vẫn chưa được “chạm” tới. Thực tế vẫn chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu tìm hiểu văn học từ góc độ văn hóa học cho giáo viên ở các trường ĐH, THPT, THCS. 
Ta thường hay nói “Văn học là nhân học”. Nói văn hóa học chính là nói đến con người - nhân học. Bất cứ tác phẩm văn chương nào cũng thể hiện con người và hoạt động của con người trong một không gian thời gian nhất định. Con người trong văn học ở mỗi thời kỳ lại có những cách thể hiện riêng, diện mạo riêng. Con người Trung đại khác con người Hiện đại. Con người là sản phẩm của xã hội đã và không ngừng được văn hóa hóa. Tức là thành những “khuôn”, “mẫu” riêng để ngày càng hoàn thiện, phát triển đi lên. 
Với tư cách là một thực thể văn hóa,con người bao giờ cũng tồn tại trong ba mối quan hệ: quan hệ với môi trường tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân mình. Mọi ứng xử của con người đều nằm trong ba mối quan hệ đó. Điểm khác biệt của cách tiếp cận văn hóa học so với Thi pháp học là ở chỗ: tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của tác phẩm như là một thế giới khép kín, có giá trị tự thân màđặt ra nhiệm vụ đối chiếu, so sánh các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm được sản sinh để tìm nguồn gốc của các dạng thức quan niệm về con người, về không gian, thời gian trong tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học là tiếp cận khoa học liên ngành. Vận dụng tri thức tổng hợp về lịch sử, địa lý, tôn giáo, triết học, khảo cổ học, nhân loại họcđể giải mã các hiện tượng thi pháp tác phẩm văn học.
Phương pháp này không phải là một cái gì tuyệt đối so với các phương pháp khác. Cách tiếp cận văn hóa học chú trọng phân tích văn hóa từ phương diện lịch sử nên nó gần với xã hội học – lịch sử. Cách tiếp cận này nhằm tái hiện lại đời sống văn hóa trong một thời đại nhất định, do đó có nhiều trường hợp giống với công việc của chú giải học, giải mã các hiện tượng văn hóa không còn tồn tại trong hiện tại. 
Ví dụ, khi phân tích vấn đề Hồng nhan bạc phận và Tài mệnh tương đố trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Theo quan điểm của người hiện đại Hồng nhan bạc phận có vẻ như là vấn đề duy tâm, siêu hình. Nhưng với thời Trung đại, triết lý này phản ánh số phận của người phụ nữ có sắc đẹp Hồng nhan thì phải chịu nhiều đau khổ, bất hạnh.Dẫn đến quan niệm khinh ghét, xa lánh,thậm chí ghê sợ những người xinh đẹp, nhìn sắc đẹp như là yêu ma, là nguồn gốc gây nên tai họa cho triều đại, cho gia đình, cho chính người có sắc đẹp. Từ đó, có chủ trương trọng đức hơn trọng sắc. Từ quan điểm của xã hội phong kiến soi vào truyện Kiều ta mới thấy cái nhìn nhân đạo, sự vĩ đại của Nguyễn Du: nhà thơ đã vượt qua cái nhìn giai cấp, đầy định kiến, khinh miệt người phụ nữ Tài Sắc để cảm thông chia sẻ, bênh vực cho người phụ nữ hồng nhan! Nguyễn Du là nhà thơ nữ quyền đầu tiên của văn học Việt Nam. Tuy nhiên,Hồng nhan bạc mệnh đặt vào không gian văn hóa Trung đại sẽ làm nổi bật một vấn đề khác: người phụ nữ tài sắc nói chung là những người làm ra các giá trị văn hóa nhưng lại bị xã hội khinh miệt, rẻ rúng. Bênh vực người phụ nữ đẹp và người nghệ sỹ, Nhà thơ đã đề cao giá trị tinh thần và mở ra chân trời mới về quan niệm con người: con người không chỉ có nhu cầu về vật chất: ăn, mặc, ở mà còn có đời sống tinh thần phong phú, sâu sắc. Đó mới là giá trị đích thực của con người. Chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Du cần được xác định không phải bằng định ngữ kiểu chống phong kiến chung chung mà ở những giá trị rất đỗi bình thường và hết sức cụ thể, liên quan trực tiếp đến vận mệnh con người. 
Tiếp cận văn hóa học cũng có điểm gặp gỡ với thi pháp học. Thi pháp học mô tả các ngôn ngữ được chính tác giả sử dụng. Văn hóa học cũng quan tâm đến hàm nghĩa văn hóa của các khái niệm ngôn từ của tác phẩm. Điểm khác biệt của cách tiếp cận văn hóa học với thi pháp học là ở chỗ, tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà còn có nhiệm vụ đối chiếu, so sánhcác quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm được sản sinh để tìm nguồn gốc của các dạng thức quan niệm về con người, về không gian, thời gian trong tác phẩm. Một hình tượng hay một thủ pháp nghệ thuật sở dĩ hấp dẫn, có sức thuyết phục vì nó tìm được sự chia sẻ, đồng cảm của những người cùng một nền văn hóa.
3. Phương pháp tiếp cận văn hóa học qua đoạn trích “Nỗi thương mình” trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Dưới đây là trích đoạn “Nỗi thương mình” được trích trong Truyện Kiều từ câu 1229 đến câu 1248 : 
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh 
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là 
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương 
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân
Mặc người mưa Sở mây Tần 
Những mình nào biết có xuân là gì
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai”
3.1. Vị trí của đoạn trích
Như đã nêu ở trên, Truyện Kiều là một tác phẩm thể hiện quan niệm Tài mệnh tương đố; Hồng nhan bạc phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhiều học sinh không đọc hết một phần của truyện Kiều nhưng vẫn tóm tắt được tác phẩm, vẫn “hiểu” tác phẩm, vẫn nói được lòng thương người của cụ Nguyễn Du. Nhưng để học sinh “yêu” truyện Kiều, “say” Truyện Kiều, hiểu tấm lòng của cụ Nguyễn Du gửi gắm vào tác phẩm không phải là điều đơn giản. Người dạy phải chuyển tải được “tình và ý” của Nguyễn Du, dụng ý nghệ thuật của tác giả thì học sinh mới cảm nhận được giá trị đích thực của tác phẩm.
Đoạn trích “Nỗi thương mình” là một ví dụ cụ thể. Đây là một trong những đoạn hay nhất, sâu sắc nhất, cũng là đoạn thể hiện rõ nhất thân phận của người phụ nữ hồng nhan chịu nhiều nỗi bất hạnh, khổ đau trong xã hội cũ. Đồng thời, cũng là đoạn thể hiện rõ nhất nhân phẩm của Thúy Kiều “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” cũng như tiếng kêu ai oán của Nguyễn Du cho thân phận nàng Kiều.
Trong phạm vi bài viết, người viết không đi vào phân tích lại đoạn trích như trong sách hướng dẫn giảng dạy cũng như hướng dẫn đọc hiểu văn bản mà cố gắng tiếp cận từ góc độ văn hóa học nhằm gợi mở một cách hiểu, cách đánh giá nhân vật trong đoạn trích, qua đó, giúp học sinh hiểu rõ hơn giá trị của đoạn trích cũng như giá trị tác phẩm Truyện Kiều.
Đoạn trích Nỗi thương mình có thể chia thành ba đoạn nhỏ: 
Đoạn 1 (bốn dòng đầu): Nguyễn Du miêu tả cảnh sống của Thúy Kiều giữa chốn lầu xanh
Đoạn 2 (tám dòng tiếp theo): tâm trạng đau đớn, sự tự giày vò thể hiện vẻ đẹp tâm hồn cao cả của Thúy Kiều
Đoạn 3 (những dòng còn lại): Thúy Kiều cố gắng tách mình ra khỏi cuộc sống xô bồ chốn lầu xanh để giữ phẩm giá của mình.
Đọc đoạn trích và những tài liệu hướng dẫn đọc, hiểu đoạn trích, học sinh cũng đã thấy được điều này. Vấn đề ở đây là làm sao chuyển tải được các nội dung đoạn trích cho học sinh hiểu và thấu cảm nhân cách Thúy Kiều và tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du gửi gắm vào trong câu chữ. 
3.2. Phân tích đoạn trích từ góc độ văn hóa học với hai khái niệm Thân và Tâm
3.2.1. “Thân” trong Truyện Kiều và trong đoạn trích Nỗi thương mình
“Thân”– thân xác là một thực thể hiển nhiên khẳng định sự có mặt của con người trên cuộc đời, nếu không có thân xác thì cũng không có con người. Trong văn hóa trung đại, phạm trù thâncó một vị trí rất quan trọng. Các học thuyết tôn giáo lớn nhất ở phương Đông như Nho – Phật – Lão đều có đề cập đến phạm trù thân. Có các cấp độ khác nhau trong việc tiếp cận một khái niệm văn hóa như khái niệm thân. Trên t

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_kinh_nghiem_day_hoc_van_tu_goc_do_tiep_can_van_hoa_hoc.docx