SKKN Kinh nghiệm dạy học định hướng phát triển năng lực học sinh bằng phương pháp nêu vấn đề với các tình huống thực tế nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Hóa học tại trường THPT Quảng Xương 4

SKKN Kinh nghiệm dạy học định hướng phát triển năng lực học sinh bằng phương pháp nêu vấn đề với các tình huống thực tế nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Hóa học tại trường THPT Quảng Xương 4

 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “ phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc”, “ chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.

doc 21 trang thuychi01 5800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm dạy học định hướng phát triển năng lực học sinh bằng phương pháp nêu vấn đề với các tình huống thực tế nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Hóa học tại trường THPT Quảng Xương 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG IV
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM DẠY HỌC ĐỊNH HƯỚNG 
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VỚI CÁC TÌNH HUỐNG THỰC TẾ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN HÓA HỌC TẠI TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 4
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền Trang
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Hóa học
THANH HÓA, NĂM 2017
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU
2
PHẦN II: NỘI DUNG
5
 I. Cơ sở lý luận của đề tài
5
 II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
10
 III. Giải pháp giải quyết vấn đề
10
 IV. Tổ chức thực hiện và kết quả
16
PHẦN III: KẾT LUẬN
18
 Tài liệu tham khảo
19
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “ phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc”, “ chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
 Quan điểm trên đã trình bày tính cấp thiết của việc phải đổi mới nền giáo dục nước nhà nhằm phù hợp hơn với tình hình thực tiễn đất nước và xã hội quốc tế. Những thay đổi nhanh chóng về khoa học kỹ thuật, tri thức yêu cầu giáo dục phải có bước chuyển mình mạnh mẽ. Đó là sự thay đổi từ mục tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp giáo dục,  mà trọng tâm là thay đổi phương pháp giáo dục. từ quan điểm giáo dục nội dung kiến thức sang giáo dục năng lực cho người học để có thể đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn. Đối với quá trình giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng, phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của toàn bộ quá trình giáo dục. Chỉ có thể áp dụng một phương pháp dạy học phù hợp với nội dung, đối tượng ta mới có thể đạt được những mục tiêu đã đề ra, đạt được hiệu quả cao trong quá trình giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối truyền thụ một chiều sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
 Như vậy để tiếp cận với mục tiêu dạy học theo hướng phát triển năng lực phẩm chất người học, người dạy cần vận dụng khéo léo các phương pháp truyền thống, khai thác triệt để các phương pháp dạy học tích cực như dạy học nêu vấn đề, dạy học theo tình huống,  nhằm mục tiêu rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề, đặc biệt là năng lực giải quyết các vấn đề cụ thể của cuộc sống, nghề nghiệp, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. 
 Đối với bộ môn hóa học, đây là một bộ môn khoa học tự nhiên đòi hỏi tư duy logic cao nhưng đồng thời cũng rất gần gũi với thực tế cuộc sống . Đó là những điều kiện thuận lợi để có thể triển khai đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Thông qua môn hóa học, học sinh được rèn luyện một số năng lực như năng lực sử dụng ngôn ngữ hóa học, năng lực nghiên cứu và thực hành hóa học, năng lực tính toán, sáng tạo, năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống,  
 Trong thực tế quá trình giảng dạy của mình, để tiếp cận với định hướng dạy học phát triển năng lực cho học sinh, tôi đã áp dụng phương pháp nêu vấn đề bằng các tình huống thực tế trong một số giờ dạy Hóa học lớp 10 và 11. Với những tình huống có vấn đề gắn liền với thực tế và cuộc sống, học sinh phải tìm tòi để giải quyết những vấn đề đó và từ đó lĩnh hội được tri thức mới, rèn luyện kỹ năng và phát triển năng lực. Có thể nói đây là một phương pháp dạy học khá hiệu quả trong việc giúp học sinh được hoạt động nhiều hơn trong các giờ học, có cơ hội trải nghiệm để hình thành và phát triển tốt phẩm chất và năng lực người học. 
 Vì những lý do trên mà tôi tiến hành nghiên cứu đề tài SKKN “Kinh nghiệm dạy học định hướng phát triển năng lực học sinh bằng phương pháp nêu vấn đề với các tình huống thực tế nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Hóa học tại trường THPT Quảng Xương 4”. 
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 
 Để thực hiện dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, một trong những khâu quan trọng là đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp với mục tiêu, định hướng giáo dục đề ra. Phương pháp dạy học nêu vấn đề (đặt vấn đề và giải quyết vấn đề) là một phương pháp dạy học tích cực có thể phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với định hướng nêu trên. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chú trọng nêu vấn đề bằng các tình huống gắn liền với thực tế đời sống và sản xuất sẽ kích thích sự hứng thú và lòng say mê của các em học sinh. Học sinh được tìm tòi, đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề sẽ giúp rèn luyện và phát triển năng lực, từ đó hình thành phẩm chất và năng lực người học. 
III.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 
 - Phương pháp dạy học nêu vấn đề (đặt vấn đề và giải quyết vấn đề) nhằm định hướng phát triển năng lực học sinh.
 - Học sinh các lớp 10 và 11 trường THPT Quảng Xương 4 với cách học nêu vấn đề (đặt vấn đề và giải quyết vấn đề).
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
 - Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
 - Phương pháp quan sát
 - Phương pháp điều tra
 - Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm
PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI: 
 1. Khái niệm năng lực:
 1.1. Năng lực là gì?
 Có rất nhiều định nghĩa về năng lực và khái niệm này đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Theo cách hiểu thông thường, năng lực là sự kết hợp của tư duy, kỹ năng và thái độ sẵn có hoặc ở dạng tiềm năng có thể học hỏi của một cá nhân hoặc tổ chức để thực hiện thành công nhiệm vụ. 
 Các nhà tâm lý học cho rằng năng lực là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. 
 Vậy có thể phát biểu năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống.
 1.2. Đặc điểm của năng lực: 
 Năng lực có một số đặc điểm: 
 Có sự tác động của một cá nhân cụ thể tới một đối tượng cụ thể (kiến thức, quan hệ xã hội ) để có một sản phẩm nhất định, do đó có thể phân biệt người này với người khác.
 Năng lực là một yếu tố cấu thành trong một hoạt động cụ thể. Năng lực chỉ tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của một hoạt động cụ thể. Vì vậy năng lực vừa là mục tiêu, vừa là kết quả hoạt động. 
 Đề cập tới xu thế đạt được một kết quả nào đó của một công việc cụ thể, do một con người cụ thể thực hiện (năng lực học tập, năng lực tư duy, năng lực tự quản lý bản thân, ) vậy không tồn tại năng lực chung chung.
 1.3. Phân loại năng lực: 
 Năng lực chia thành năng lực chung và năng lực chuyên biệt (năng lực chuyên môn)
 Năng lực chung: Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp. Một số năng lực cốt lõi của học sinh : Năng lực tự học: năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lý, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng CNTT và TT, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tính toán.
 Năng lực chuyên biệt: Là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động như Toán học, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể thao, Địa lí, Hóa học 
 2. Giáo dục theo định hướng phát triển năng lực:
 Giáo dục dựa trên năng lực ( competency – based education - CBE) nổi lên từ những năm 1970 ở Mỹ. Với hình thái này giáo dục hướng tới việc đo lường chính xác kiến thức, kỹ năng và thái độ của người học sau khi kết thúc mỗi chương trình học. Nếu giáo dục truyền thống được coi là giáo dục theo nội dung, kiến thức tập trung vào việc tích lũy kiến thức, nhấn mạnh tới các năng lực nhận thức và việc vận dụng kiến thức tập trung vào việc thực hành kỹ năng chứ không hướng tới việc chứng minh khả năng đạt được, và đánh giá của giáo dục truyền thống cũng tập trung đo lường kiến thức thông qua các bài thi viết và nói thì giáo dục theo năng lực tập trung vào phát triển các năng lực cần thiết để học sinh có thể thành công trong cuộc sống cũng như trong công việc. Các năng lực thường được tập trung phát triển bao gồm năng lực xử lý thông tin, giải quyết vấn đề, phản biện, năng lực học tập suốt đời. Do đó đánh giá cũng hướng tới việc đánh giá kiến thức trong việc vận dụng một cách hệ thống và các năng lực đạt được cần phải đánh giá thông qua nhiều công cụ và hình thức trong đó có cả quan sát và thực hành trong tình huống mô phỏng. 
 Rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giáo dục dựa trên năng lực là dành cho giáo dục dạy nghề. Tuy nhiên thực tế cho thấy không phải như vậy. Trong những thập kỷ gần đây với sự phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật cũng như tri thức, giáo dục nếu chỉ hướng tới việc nắm vững kiến thức là không đủ, bởi kiến thức hôm qua còn mới hôm nay đã trở thành lạc hậu. Do đó nhều hệ thống giáo dục đã hướng tới việc giáo dục để người học có đủ khả năng làm chủ kiến thức và sử dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong khoa học cũng như trong thực tế khi mục tiêu và hình thái giáo dục chuyển đổi thì phương pháp giảng dạy và đánh giá cũng thay đổi theo. Các hệ thống giáo dục tiên tiến đã áp dụng phương pháp giảng dạy theo năng lực thay vì giảng dạy theo nội dung kiến thức. 
 Giảng dạy theo năng lực là hướng tiếp cận tập trung vào đầu ra của quá trình dạy và học, trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực như thế nào sau khi kết thúc một chương trình giáo dục. Nói cách khác chất lượng đầu ra đóng vai trò quan trọng nhất đối với giảng dạy theo năng lực. Điều này có nghĩa là để chương trình giảng dạy theo năng lực có hiệu quả, cần phải bắt đầu với bức tranh rõ ràng về năng lực quan trọng mà người học cần phải đạt được, tiếp đến là xây dựng và phát triển chương trình dạy và học, sau đó giảng dạy và xây dựng các phương pháp đánh giá nhằm đảm bảo rằng mục đích của giáo dục theo năng lực đạt được mục tiêu đề ra. Có thể thấy, yếu tố quan trọng của giáo dục năng lực là xây dựng được các tiêu chuẩn đầu ra rõ ràng thể hiện rõ mục tiêu của giáo dục, thiết lập được các điều kiện và cơ hội để khuyến khích người học có thể đạt được các mục tiêu ấy. Rất nhiều người nghiên cứu gần đây đã tập trung nghiên cứu mối liên hệ giữa giáo dục năng lực và xây dựng chương trình và đánh giá theo năng lực. Điều này cũng có nghĩa là các năng lực mà người học cần đạt được phải rõ ràng, cụ thể. Các chương trình giảng dạy sẽ được chia thành các module trong đó tập trung phát triển từng năng lực cụ thể của người học theo mục tiêu đề ra. Ngoài ra chương trình giảng dạy theo năng lực cũng cho phép người học bỏ qua những module về năng lực mà người học đã nắm vững thông qua kết quả đánh giá trong quá trình học hoặc kết quả đánh giá ban đầu. Cụ thể là, người ta thường chia một năng lực cụ thể thành các thành các thành tố khác nhau, trên cơ sở đó xây dựng tiêu chí thực hiện, phạm vi và bối cảnh, kiến thức cơ sở cũng như nguồn minh chứng cho từng thành tố. 
 Rõ ràng là, chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục theo năng lực là hình thức chuyển đổi từ việc nhấn mạnh việc giáo viên tin là học sinh cần phải biết gì sang việc học sinh phải nắm rõ mình cần biết gì và có thể làm gì trong các tình huống và bối cảnh khác nhau. Do đó giảng dạy theo năng lực là lấy học sinh làm trung tâm và giáo viên giữ vai trò như người hướng dẫn. Phương pháp này giúp học sinh chủ động hơn trong việc đạt được năng lực cần phải có theo yêu cầu đặt ra phù hợp với từng điểm mạnh, điểm yếu của cá nhân. Giảng dạy theo năng lực là một hình thái giáo dục có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực và bối cảnh. Chính vì thế, giáo dục theo năng lực tập trung vào đầu ra gắn liền với nhu cầu của thị trường lao động và xã hội, hoặc cấp học trên. 
 3. Phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực:
 Trong giáo dục, quy trình đào tạo được xem như là hệ thống bao gồm các yếu tố: mục tiêu, chương trình giáo dục, nội dung, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là khâu rất quan trọng bởi lẽ phương pháp dạy học có hợp lý thì hiệu quả của việc dạy học mới cao, phương pháp có phù hợp thì mới có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của người học. Bởi vậy, việc đổi mới giáo dục trước hết là việc đổi mới phương pháp dạy học. Đó là đổi mới cách dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, gọi là phương pháp dạy học tích cực. 
 Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải của người dạy. Trong phương pháp dạy học tích cực, người học – đối tượng của hoạt động dạy đồng thời là chủ thể của hoạt động học, được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ dẫn, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. 
 Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
 Để đáp ứng các yêu cầu trên khi dạy học theo định hướng phát triển năng lực, ta có thể áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực như phương pháp dạy học nêu vấn đề, thảo luận theo nhóm, dạy học theo dự án,  Đặc biệt phương pháp dạy học nêu vấn đề ( đặt vấn đề và giải quyết vấn đề) học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực sáng tạo, chuẩn bị được một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề phát sinh.
 Cấu trúc một bài học theo phương pháp nêu vấn đề gồm có các bước sau: 
 * Bước 1: Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức: 
 - Tạo tình huống có vấn đề
 - Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh
 - Phát hiện vấn đề cần giải quyết.
 * Bước 2: Giải quyết vấn đề đặt ra: 
 - Đề xuất cách giải quyết
 - Lập kế hoạch giải quyết
 - Thực hiện kế hoạch giải quyết
 * Bước 3: Kết luận: 
 - Thảo luận kết quả và đánh giá
 - Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu ra
 - Phát biểu kết luận 
 - Đề xuất vấn đề mới
 4. Các năng lực trong dạy học cần định hướng cho học sinh:
 - Năng lực tự học
 - Năng lực giải quyết vấn đề
 - Năng lực sáng tạo
 - Năng lực tự quản lý
 - Năng lực giao tiếp
 - Năng lực hợp tác
 - Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
 - Năng lực sử dụng ngôn ngữ
 - Năng lực tính toán
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 
 Hiện nay nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục nước nhà không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với thế giới và các quốc gia trong khu vực. Trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có những bất cập về chất lượng giáo dục đã gây nên tình trạng thụ động trong học tập của học sinh, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập hiện tại cũng như cuộc sống lao động và học tập sau này của các em. Thực tế cho thấy lượng kiến thức mà học sinh được học trong trường phổ thông có tính ứng dụng vào thực tế cuộc sống và lao động là không nhiều. Điều này ảnh hưởng xấu đến sự thành công trong công tác của các em. Các kiến thức phổ thông đơn thuần đó cũng chưa làm tốt được một số nhiệm vụ quan trọng của giáo dục phổ thông như giáo dục hướng nghiệp, hình thành và định hướng phát triển năng lực chuyên môn,  Và chúng ta có thể thấy ngày càng nhiều học sinh có biểu hiện giảm hứng thú đối với các môn học bắt buộc trong chương trình phổ thông. Đối với bộ môn hóa học là một môn học gắn liền với tự nhiên, cuộc sống và sản xuất, tuy nhiên học sinh còn rất hạn chế trong việc vận dụng những kiến thức mà mình đã học để cải biến tự nhiên, góp phần tạo ra của cải vật chất phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của con người. Đồng thời cũng chưa liên hệ được những kiến thức từ tự nhiên, xã hội để làm phong phú và hiệu quả hơn quá trình học tập của mình. Để giải quyết vấn đề này, học sinh cần phải được giáo dục theo một hướng khác, quan tâm hơn đến khả năng của mỗi em, phát huy năng lực vốn có, bồi dưỡng những thiếu sót để giúp hoàn thiện và phát triển năng lực hoạt động để các em có thể tự tin hơn trong cuộc sống lao động sản xuất sau này. 
III. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
 Để khắc phục tình trạng trên, trong thực tế giảng dạy của mình, tôi đã mạnh dạn đưa vào chương trình giảng dạy một số tình huống cụ thể gắn liền với cuộc sống và sản xuất để tạo tình huống có vấn đề, hướng dẫn học sinh tự mình tìm ra giải pháp giải quyết các vấn đề trên, từ đó nắm được kiến thức, kỹ năng và phát triển một số năng lực như năng lực tự học, năng lực làm việc nhóm (hợp tác), năng lực sáng tạo,  
 1. Tình huống 1: (Giảng dạy bài amoniac – muối amoni – Hóa học 11)
 - Hoạt động 1: Giáo viên đặt vấn đề: Tại sao trong thực tế người ta dùng muối amoni clorua NH4Cl để tẩy sạch bề mặt kim loại trước khi hàn?
 Hệ thống câu hỏi gợi ý giải quyết vấn đề: 
 1. Tại sao phải tẩy sạch bề mặt kim loại trước khi hàn?
 2. Khi ở nhiệt độ cao muối amoniclorua bị phân hủy thành các chất gì?
 3. Các chất thu được phản ứng như thế nào với oxit kim loại?
 4. Trên thực tế người ta còn có những cách nào để tẩy gỉ trên bề mặt kim loại? Các em hãy tham khảo tài liệu và giải thích cách làm đó?
 - Hoạt động 2: Học sinh thảo luận theo nhóm, nghiên cứu tài liệu để giải quyết vấn đề.
 Mục tiêu cần đạt được khi giải quyết vấn đề trên là: 
 - Bề mặt kim loại luôn có một lớp gỉ là các oxit, bazơ, muối của kim loại do kim loại bị oxi hóa trong không khí. Khi hàn kim loại ta phải loại bỏ lớp gỉ này để cho mối hàn chắc hơn. 
 - Ở nhiệt độ cao muối NH4Cl bị phân hủy thành NH3 và HCl.
 - HCl tác dụng được với các oxit, bazơ của kim loại, NH3 có tính khử mạnh có thể khử được oxit kim loại thành kim loại.
 - Trên thực tế có thể dùng một số biện pháp khác để tẩy gỉ trên bề mặt kim loại như vệ sinh bằng giấy ráp,  
 - Hoạt động 3: 
 HS: Trình bày kết quả thảo luận để giải quyết vấn đề, thảo luận bổ sung.
 GV: Đánh giá việc thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề là dựa trên tính chất hóa học của muối NH4Cl, NH3 và HCl. Cơ sở trên là đúng đắn, hợp logic.
 - Hoạt động 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung, kết luận và chốt ý:
 1. Tính chất hóa học của NH3: 
 a. Tính bazơ yếu:
 - Tác dụng với nước: Khi tan trong nước, NH3 kết hợp với ion H+ của nước, tạo thành ion amoni NH4+ và giải phóng ion OH- làm cho dung dịch có tính bazơ và dẫn điện. 
 - Tác dụng với dung dịch muối: Dung dịch amoniac có thể tác dụng với dung dịch muối của nhiều kim

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_day_hoc_dinh_huong_phat_trien_nang_luc_hoc.doc