SKKN Kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên bộ môn Ngữ văn thực hiện dạy học kiến thức liên môn cho bài “ Mùa xuân của tôi” – Vũ Bằng , trong chương trình Ngữ văn 7 nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh ở Trường THCS Trường Lâm
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống người dân đang dần được cải thiện. Điều đó tác động không nhỏ đến công tác giáo dục, tạo động lực cho việc chúng ta tìm ra nhân tài cho đất nước thông qua việc các em hứng thú học và cảm thụ các giờ văn. Nhưng trước sự mở cửa của đất nước trong xu thế hội nhập về kinh tế thì vị trí môn Ngữ văn trong nhà trường ngày càng bị xem nhẹ, đặc biệt là đối với học sinh, học văn các em xem như là một sự ép buộc
(nhất là trong việc lựa chọn học sinh giỏi đi dự thi HSG môn Ngữ văn cấp Huyện, trước định hướng của phụ huynh học sinh các em càng ngại và không muốn đi thi HSG môn này). Cũng vì thế mà hiện nay chúng ta có thể thấy có một số em rất giỏi về làm kinh tế hay giỏi về nhiều ngoại ngữ nhưng không thể hiểu nổi ý nghĩa của một câu ca dao, tục ngữ đơn giản; không biết cách viết một câu đơn theo đúng nghĩa của nó. Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn, hẳn mỗi lần chấm bài làm của học sinh chúng ta phải bật cười vì những câu không có nghĩa, hay trên lớp khi dạy học xong một bài văn bản, bài thơ chúng ta cho học sinh phát biểu cảm nghĩ của mình với bài vừa học thì khi phát biểu của các em vừa dứt cũng là tràng cười của cả lớp ngả nghiêng, thế nhưng cũng đằng sau tiếng cười ấy lại là một nỗi chua xót đắng cay và những giọt nước mắt cảm thấy hổ thẹn thay vì sản phẩm ấy là của mình. Vì vậy, công việc dạy học đối với giáo viên Ngữ văn đòi hỏi làm sao phải lôi cuốn được học sinh ham thích tiết học văn bản để từ đó viết bài văn, tự nguyện đăng kí được dự thi học sinh giỏi môn Ngữ văn từ cấp trường trở lên, đó là một việc làm thường xuyên của giáo viên nói chung đặc biệt đối với giáo viên dạy môn Ngữ văn. Đây là một công việc mà người dạy học có thể đánh giá mức độ thành thạo về kĩ năng, mức độ tiếp thu kiến thức và tâm thế sau tiết học của học sinh, qua đó mà chúng ta có thể phần nào tự đánh giá công việc dạy học của mình và có biện pháp điều chỉnh sao cho hợp lí, phù hợp với tình hình học tập của học sinh.
I – MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Xã hội ngày càng phát triển, đời sống người dân đang dần được cải thiện. Điều đó tác động không nhỏ đến công tác giáo dục, tạo động lực cho việc chúng ta tìm ra nhân tài cho đất nước thông qua việc các em hứng thú học và cảm thụ các giờ văn. Nhưng trước sự mở cửa của đất nước trong xu thế hội nhập về kinh tế thì vị trí môn Ngữ văn trong nhà trường ngày càng bị xem nhẹ, đặc biệt là đối với học sinh, học văn các em xem như là một sự ép buộc (nhất là trong việc lựa chọn học sinh giỏi đi dự thi HSG môn Ngữ văn cấp Huyện, trước định hướng của phụ huynh học sinh các em càng ngại và không muốn đi thi HSG môn này). Cũng vì thế mà hiện nay chúng ta có thể thấy có một số em rất giỏi về làm kinh tế hay giỏi về nhiều ngoại ngữ nhưng không thể hiểu nổi ý nghĩa của một câu ca dao, tục ngữ đơn giản; không biết cách viết một câu đơn theo đúng nghĩa của nó. Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn, hẳn mỗi lần chấm bài làm của học sinh chúng ta phải bật cười vì những câu không có nghĩa, hay trên lớp khi dạy học xong một bài văn bản, bài thơchúng ta cho học sinh phát biểu cảm nghĩ của mình với bài vừa học thì khi phát biểu của các em vừa dứt cũng là tràng cười của cả lớp ngả nghiêng, thế nhưng cũng đằng sau tiếng cười ấy lại là một nỗi chua xót đắng cay và những giọt nước mắt cảm thấy hổ thẹn thay vì sản phẩm ấy là của mình. Vì vậy, công việc dạy học đối với giáo viên Ngữ văn đòi hỏi làm sao phải lôi cuốn được học sinh ham thích tiết học văn bản để từ đó viết bài văn, tự nguyện đăng kí được dự thi học sinh giỏi môn Ngữ văn từ cấp trường trở lên, đó là một việc làm thường xuyên của giáo viên nói chung đặc biệt đối với giáo viên dạy môn Ngữ văn. Đây là một công việc mà người dạy học có thể đánh giá mức độ thành thạo về kĩ năng, mức độ tiếp thu kiến thức và tâm thế sau tiết học của học sinh, qua đó mà chúng ta có thể phần nào tự đánh giá công việc dạy học của mình và có biện pháp điều chỉnh sao cho hợp lí, phù hợp với tình hình học tập của học sinh. Tuy nhiên, không phải lúc nào bộ môn Ngữ văn cũng lôi cuốn hứng thú đối với học sinh và tất cả học sinh cũng được giáo viên quan tâm đúng mức. Trong thời gian tham gia chỉ đạo chuyên môn ở Tổ xã hội cũng như thực tế đã đứng lớp giảng dạy môn Ngữ văn nhiều năm, tôi thấy nhiều thầy cô giáo chưa quan tâm đến vấn đề này vì khi đến những tiết văn bản giáo viên thường cung cấp kiến thức phần lớn đủ theo hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa, ít tìm tòi bổ sung, mở rộng kiến thức ở các bộ môn khác và không kích thích khả năng khám phá, sáng tạo của học sinh; “phớt lờ” cần biết thái độ học sinh đối với bài dạy, tiết dạy của mình vì “ lương” của mình cứ đến kì thì tăng, cứ đến ngày là được lấy. Có thể thấy, đây không phải là vấn đề mới, tuy nhiên xuất phát từ tình hình thực tế mỗi giáo viên có quan điểm khác nhau , cách tổ chức khác nhau, giáo án khác nhau trong tiết dạy học văn bản nhằm gây hứng thú cho học sinh đối với môn Ngữ văn, bằng đúc rút kinh nghiệm thực tiễn tôi chọn viết về: Kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên bộ môn Ngữ văn thực hiện dạy học kiến thức liên môn cho bài “ Mùa xuân của tôi” – Vũ Bằng , trong chương trình Ngữ văn 7 nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh ở Trường THCS Trường Lâm. 2. Mục đích nghiên cứu Chỉ đạo giáo viên thực hiện dạy học tiết văn bản có sử dụng kiến thức liên môn để : Giáo viên: Tăng khả năng tự học, tự bồi dưỡng kiến thức cho bộ môn của mình đồng thời mở rộng kiến thức thêm ở các bộ môn khác Học sinh: Tăng khả năng sáng tạo, yêu thích học bộ môn Ngữ văn 3. Đối tượng nghiên cứu - Đối với GV: nắm được phương pháp, cách thức cách truyền giảng tới HS - Đối với HS: nắm bắt tâm tư, nguyện vọng đối với bộ môn và giáo viên 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: chỉ đạo tổ bộ môn cứ các công văn hướng dẫn của Ngành, căn cứ tình hình thực tiễn của giáo viên bộ môn họp bàn để xây dựng tiết dạy cho đồng nghiệp của mình - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin : bằng phiếu nhằm thu thập thông tin về thực trạng học sinh thụ động và ít hứng thú với việc học môn Ngữ văn qua đó xác định nguyên nhân của thực trạng làm cơ sở cho việc xác lập các biện pháp nhằm gây hứng thú cho HS - Phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu: nhằm nổi bật kết quả đạt được trước và sau khi áp dụng bài dạy. - Phương pháp quan sát : nhằm thu thập các biểu hiện sinh động, khách quan về thái độ, hứng thú cũng như mức độ tham gia hoạt động trong giờ học của học sinh - Phương pháp thử nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm nhằm mục đích kiểm tra kết quả của việc sử dụng các kiến thức liên môn theo qui trình thiết kế trong bài giảng để điều chỉnh sao cho phù hợp. II – NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1/ Cơ sở lí luận của Sáng kiến kinh nghiệm Nghị quyết TW 4 khoá VII, Nghị quyết TW 2 khoá VIII và được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục ( sửa đổi) như sau: Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học.” Điều 24.2. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc diểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,...” Thực hiện công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08/10/2014của Bộ Giáo dục và Đào tạo và công văn số 1976/SGDĐT- GDTrH của Giám đốc Sở GD& ĐT Thanh Hóa ngày 20 tháng 10 năm 2014 V/v: Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo dục thường xuyên qua mạng chỉ rõ về: * Mục đích: Giúp cho cán bộ quản lý, giáo viên bước đầu biết chủ động lựa chọn nội dung để xây dựng các chuyên đề dạy học trong mỗi năm học và các chuyên đề tích hợp, liên môn phù hợp với việc tổ chức hoạt động dạy học tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh; sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để xây dựng tiến trình dạy học theo chuyên đề nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; *Yêu cầu: Việc xây dựng các chuyên đề dạy học trong mỗi môn học, các chuyên đề tích hợp, liên môn và kế hoạch dạy học bộ môn phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương và khả năng học tập của học sinh; * Nội dung sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn về đổi mới PPDH và KTĐG - Xây dựng chuyên đề dạy học: Trên cơ sở rà soát chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong mỗi chuyên đề đã xây dựng. - Biên soạn câu hỏi/bài tập: Với mỗi chuyên đề đã xây dựng, xác định và mô tả 4 mức độ yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận dụng cấp độ thấp, vận dụng cấp độ cao) của mỗi loại câu hỏi/bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. - Thiết kế tiến trình dạy học: Tiến trình dạy học chuyên đề được tổ chức thành các hoạt động dạy học của học sinh để có thể thực hiện trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ thực hiện một số hoạt động trong tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng. - Tổ chức dạy học và dự giờ: Trên cơ sở các chuyên đề dạy học đã xây dựng, tổ/nhóm chuyên môn phân công giáo viên thực hiện bài học để dự giờ, phân tích và rút kinh nghiệm về giờ dạy. Khi dự giờ, cần tập trung quan sát hoạt động học của học sinh thông qua việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ học tập với yêu cầu như sau: - Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với khả năng của học sinh, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh; đảm bảo cho tất cả học sinh tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. - Thực hiện nhiệm vụ học tập: khuyến khích học sinh hợp tác với nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập, phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh và có biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không có học sinh bị "bỏ quên". - Báo cáo kết quả và thảo luận: hình thức báo cáo phù hợp với nội dung học tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; khuyến khích cho học sinh trao đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập, xử lí những tình huống sư phạm nảy sinh một cách hợp lí. - Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: nhận xét về quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và những ý kiến thảo luận của học sinh; chính xác hóa các kiến thúc mà học sinh đã học được thông qua hoạt động. - Phân tích, rút kinh nghiệm bài học: Phân tích giờ dạy theo quan điểm đó là phân tích hiệu quả hoạt động học của học sinh, đồng thời đánh giá việc tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học cho học sinh của giáo viên. Có thể nói : Cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen hoạt động học tập thụ động của học sinh Căn cứ vào mục tiêu cùng với dựa vào đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh THCS : ham tìm hiểu, tiếp cận, thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán. Do đó việc Giáo viên đổi mới phương pháp dạy học bằng việc sử dụng kiến thức liên môn trong giờ học Ngữ văn là hết sức cần thiết và có ích, có tác dụng giúp học sinh: - Tăng cường khả năng chú ý, nắm bắt nội dung bài học phát huy tính năng động của các em - Nâng cao hứng thú cho người học, góp phần làm giảm mệt mỏi, căng thẳng trong học tập của học sinh. Phát triển tính độc lập ham hiểu biết và khả năng suy luận. - Tăng cường khả năng thực hành, khả năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau, giúp học sinh rèn luyện các khả năng ứng xử, giao tiếp. - Thu hút cả lớp tham gia xây dựng bài. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trong năm học 2016 – 2017, qua mỗi tiết dự giờ của giáo viên bằng phiếu khảo sát học sinh 3 lớp 7 của trường tôi ở đầu học kì I ( Tháng 9/2016) cảm nhận về học môn Ngữ văn, tôi thu được kết quả : Lớp Sĩ số Thái độ , tình cảm đối với môn Ngữ văn Yêu thích Bình thường Không thích 7A 36 16 (44,4%) 14(38,9%) 6(16,7%) 7B 37 10(27,02%) 10(27,02%) 17(45,96%) 7C 36 11(30,55%) 14(38,9%) 11(30,55%) Tổng 109 37(33,94%) 38(34,86%) 34(31,2%) * Chất lượng HSG môn Ngữ văn K6,7,8 cấp Huyện năm học 2015- 2016 đạt được như sau : Số HS dự thi Số HS đạt giải Giải nhất Giải Nhì Giải ba Giải KK Không đạt SL % SL % SL % SL % SL % 9 9 0 0 1 11.12 3 33.33 5 55.55 0 0 Kết quả cho thấy sự yêu thích học môn Ngữ văn và HS đạt giải có số chiếm tỉ lệ thấp, nguyên nhân do đâu ? Đó là câu hỏi đặt ra dành cho giáo viên phải suy nghĩ, trăn trở với bộ môn của mình, từ đó người quản lí có định hướng chỉ đạo cùng giáo viên tìm ra phương pháp đổi mới để gây hứng thú và yêu thích học môn Ngữ văn đối với học sinh 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 3.1. Giải pháp thực hiện Tôi chỉ đạo tổ Chuyên môn thực hiện những giải pháp sau : (1) Dự giờ đúc rút kinh nghiệm (2) Lựa chọn - xây dựng nội dung kiến thức đưa vào bài phù hợp với bài dạy. (3) Thử nghiệm sư phạm (4)Chỉ đạo, tổ chức thực hiện 3.2. Các biện pháp đã tổ chức thực hiện 3.2.1. Về dự giờ đúc rút kinh nghiệm Vấn đề này đã được tất cả giáo viên trong nhà trường thực hiện theo nhiệm vụ được giao ngay từ đầu năm học trong Hội nghị công chức: mỗi giáo viên dự giờ ít nhất 01 tiết/ tuần ( 15 tiết/ học kì). Lâu nay việc dự giờ chúng ta thường xem nhẹ, sổ dự giờ chúng ta chỉ ghi cho đủ số tiết theo quy định để kiểm tra về mặt hồ sơ cho nên phần Rút kinh nghiệm trong sổ dự giờ về Ưu điểm và Nhược điểm giáo viên ghi chép rất sơ sài chiếu lệ; mặt khác khi dự giờ đồng nghiệp giáo viên chỉ chú ý nhiều đến trọng tâm kiến thức, thời gian giáo viên phân chia cho từng phầnít chú ý đến thái độ học sinh học như thế nào kể cả giáo viên dạy khi có người dự thường ít chú ý đến học sinh yếu trong lớp, chỉ chăm chăm mời học sinh từ khá trở lên để xây dựng bài cho tốt, không bị cháy hay lụt giờ dạy. Vì vậy, tham khảo hướng dẫn dự giờ theo tinh thần công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08/10/2014của Bộ Giáo dục và Đào tạo và công văn số 1976/SGDĐT- GDTrH của Giám đốc Sở GD& ĐT Thanh Hóa ngày 20 tháng 10 năm 2014 tôi chỉ đạo giáo viên đi dự giờ, ngoài việc bám nhận xét theo yêu cầu chung của mọi tiết dự đánh giá về : Nội dung; Phương pháp; Phương tiện, Tổ chức; Kết quả phải chú ý nhiều đến thái độ và tâm thế học sinh trong giờ học theo hướng dẫn số 572/HD- SGDĐT của Giám đốc Sở GD & ĐT Thanh Hóa kí ngày 29 tháng 3 năm 2017 sẽ thực hiện kể từ năm học 2017-2018 (Giờ dạy trong hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp (cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh), về việc đề cao vai trò tích cực của HS với 8/12 tiêu chí theo phiếu đánh giá sau: Nội dung Tiêu chí Điểm đánh giá Điểm tối đa Kế hoạch và tài liệu dạy học 1. Mức độ phù hợp của chuỗi hoạt động học với mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học được sử dụng. 1 2. Mức độ rõ ràng của mục tiêu, nội dung, kĩ thuật tổ chức và sản phẩm cần đạt được của mỗi nhiệm vụ học tập. 1 3. Mức độ phù hợp của thiết bị dạy học và học liệu được sử dụng để tổ chức các hoạt động học của học sinh. 1 4. Mức độ hợp lí của phương án kiểm tra, đánh giá trong quá trình tổ chức hoạt động học của học sinh. 1 Tổ chức hoạt động học cho học sinh 5. Mức độ sinh động, hấp dẫn học sinh của phương pháp và hình thức chuyển giao nhiệm vụ học tập. 2 6. Khả năng theo dõi, quan sát, phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh. 2 7. Mức độ phù hợp, hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích học sinh hợp tác, giúp đỡ nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập. 2 8. Mức độ hiệu quả hoạt động của giáo viên trong việc tổng hợp, phân tích, đánh giá kết quả hoạt động và quá trình thảo luận của học sinh. 2 Hoạt động học của học sinh 9. Khả năng tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập của tất cả học sinh trong lớp. 2 10. Mức độ tích cực, chủ động, sáng tạo, hợp tác của học sinh trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập. 2 11. Mức độ tham gia tích cực của học sinh trong trình bày, trao đổi, thảo luận về kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập. 2 12. Mức độ đúng đắn, chính xác, phù hợp của các kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. 2 Cộng 20 Tuy nhiên , trong thực tế đi dự giờ mọi người thường thấy không bổ ích, kiến thức chẳng có gì, thường hay tự đề cao mìnhđã có tâm lí ngại rồi mà bây giờ lại nhận xét đánh giá lại càng ngại. Cuối cùng, chỉ có người chỉ đạo chuyên môn là người đứng mũi chịu sào vì đây là sáng kiến của họ. Sau khi mọi người nhận xét, tôi là người chỉ đạo chuyên môn phải thâu tóm lại những mặt mạnh – yếu trong giờ dạy, chỉ ra được vấn đề, đối tượng mà tất cả mọi người đang quan tâm, còn thấy chưa đạt có như vậy thì mới có thể cùng thảo luận cho một tiết chung để khắc phục sự không yêu thích môn học đối với học sinh thì mới nâng cao hứng thú và tình cảm yêu mến phần văn bản nói riêng và môn Ngữ văn nói chung. Vì vậy, bằng kinh nghiệm từ những năm tôi còn đứng lớp, với việc cùng các giáo viên đi dự giờ đồng nghiệp của mình về thảo luận để có tiết dạy văn bản có sử dụng kiến thức của các môn học cùng cấp học như : Địa lí, Lịch sử, Âm nhạc, Mĩ thuật đúng nghĩa : tạo sự tích cực cho người học và tự bồi dưỡng kiến thức thường xuyên cho mỗi giáo viên nhằm tìm ra điểm yếu cho nhau phải thực hiện ngay từ khâu đầu tiên dự giờ góp ý phải chân thành. 3.2.2. Lựa chọn và xây dựng môn học phù hợp với bài dạy. Với văn bản ở SGK Ngữ văn 7, Tiết 63 : Mùa xuân của tôi – Vũ Bằng, là bài học được học trong chương trình cuối học kì I. Bước 1 : Tôi chỉ đạo giao cho một giáo viên phụ trách chính, cùng tôi phác thảo ý chính cho bài. Bước 2 : Đưa ra tổ cùng thảo luận và bổ sung. Bước 3 : Chọn phương án dạy là bài giảng điện tử trình chiếu trên Poweppoint Những kiến thức liên môn được lựa chọn sử dụng cho Văn bản : Tiết 63 : MÙA XUÂN CỦA TÔI – Vũ Bằng được thể hiện như sau : * Âm nhạc Giúp học sinh cảm nhận sức sống cảnh vật, con người xuân sang tràn trề sự sống, tạo tiết học Văn bản bút kí có chất nhạc rộn ràng Cụ thể : Lựa chọn bài hát có nội dung phù hợp với văn bản : Mùa xuân của tôi. Mục đích : tôi chỉ đạo đưa Âm nhạc vào mở đầu trong bài dạy vì đây là văn bản bút kí nên nó rất khô khan khi học sẽ gây sự ngại học với thể loại này, sẽ giúp cho học sinh hứng thú ngay từ đầu giờ, các em sẽ có tâm thế hứng khởi, hăng say xây dựng bài qua các ca từ ngay từ đầu bài hát : « Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về, mùa bình thường mùa vui nay đã về, mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên, với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông một trưa nắng cho bao tâm hồn. Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về, người mẹ nhìn đàn con nay đã về, mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên.. » Ở phân môn Lịch sử và địa lí tôi chỉ đạo lựa chọn hình ảnh bản đồ đất nước ta phù hợp trong giai đoạn lịch sử ( 1954- 1975) Mục đích : - Cảm thương sự đau thương chia cắtcủa dân tộc lúc bấy giờ. - Nắm được địa danh vĩ tuyến17 sông Bến Hải và cầu Hiền Lương thuộc tỉnh nào? Vị trí địa lí ? - Các em có thể so sánh với những lược đồ được học trong thời điểm hiện nay có những chú thích khác nhau như thế nào. * Môn Mĩ thuật - Nhận biết chân dung Vũ Bằng con người sáng tác không mệt mỏi cho nghệ thuật - Cảm nhận một số bức tranh về mùa xuân nói chung và đặc trưng mỗi miền có một loài hoa nói riêng. - Biết được một số lễ hội có trên đất nước ta. Mục đích : - Nhớ và biết được chân dung các tác giả trong chương trình mình được học - Biết được sự phong phú các loài hoa trên đất nước ta - Yêu quý, trân trọng các giá trị nghệ thuật của dân tộc Với kiến thức môn Mĩ thuật tôi chỉ đạo lựa chọn : - Những hình ảnh, lễ hội phù hợp với khung cảnh mùa xuân, phù hợp với nội dung từng đoạn từng bài, gần gũi với đời sống mà học sinh dễ nhận biết. - Lựa chọn các loài hoa đặc trưng của mùa xuân ( hoa mai, hoa đào..) * Môn GDCD Giáo dục học sinh yêu nét đẹp văn hóa của dân tộc mình, biết giữ gìn và phát huy những nét đẹp văn hóa đó. * Liên hệ địa phương : khi đón xuân có điểm tương đồng nào, miền nào ? Mục đích : Giúp các em biết so sánh cảnh sắc quê hương nơi đang sinh sống với nội dung bài học, từ đó thêm yêu quê hương, đất nước mình, ý thức được trách nhiệm của mình với quê hương. * Tích hợp giáo dục môi trường - Giáo dục các em biết bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, môi trường sống cho thiên nhiên – mùa xuân luôn được trường tồn. GIÁO ÁN CỤ THỂ: Tiết 63: Văn bản MÙA XUÂN CỦA TÔI – Vũ Bằng I-MỤC TIÊU CẦN ĐẠT 1. Kiến thức * Môn Ngữ văn - Cảm nhận ®ược nét đặc sắc riêng của cảnh sắc mùa xuân của Hà Nội và Miền Bắc qua lòng “ sầu xứ”, tâm trạng day dứt của tác giả . - Thấy được sự kết hợp tài hoa giữa miêu tả và biểu cảm trong văn bản tùy bút ; lời văn thấm đẫm cảm xúc trữ tình, dạt dào chất thơ. - Cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu đậm của tác giả được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, tinh tế, giàu cảm xúc, hình ảnh. * Môn Lịch sử: Khơi gợi, liên hệ tới những đặc điểm tình hình cơ bản n
Tài liệu đính kèm:
- skkn_kinh_nghiem_chi_dao_giao_vien_bo_mon_ngu_van_thuc_hien.doc