SKKN Hướng đổi mới giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11 bậc THPT

SKKN Hướng đổi mới giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11 bậc THPT

Đổi mới căn bản, toàn diện là yêu cầu của giáo dục hiện nay. Việc xây dựng, áp dụng những phương pháp mới trong dạy học bộ môn để nâng cao hiệu quả dạy và học là yêu cầu phải được giải quyết. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề theo khối hiện nay, các môn xã hội bị coi nhẹ. Môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài tình trạng ấy.

 Thời gian qua, ngành giáo dục đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học trong đó có môn Ngữ văn. Tuy nhiên, điều khiến cho những giáo viên dạy văn băn khoăn, trăn trở hơn hết đó là học sinh thường lựa chọn các môn học tự nhiên với mục tiêu chọn trường, ngành, nghề sau này có nhiều cơ hội tìm việc làm hơn. Nhiều học sinh cho rằng Ngữ văn là môn khoa học xã hội, tính ứng dụng không cao, không thiết thực với cuộc sống, công việc. Từ đó, dẫn đến tình trạng chán học văn, hoặc học mang tính đối phó. Học sinh thích học văn ngày càng ít đi.

 Vì vậy, đổi mới dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết cảm thông, yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang sách, thông qua từng tác phẩm là điều rất cần thiết. “Văn học là nhân học” học văn là để hình thành nhân cách con người. Và Ngữ văn là môn học quan trọng giúp học sinh có kỹ năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Từ đó tạo hứng thú trong học tập cho học sinh, khơi gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống tâm hồn của con người.

 

doc 22 trang thuychi01 6831
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng đổi mới giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11 bậc THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA 4
	 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
HƯỚNG ĐỔI MỚI GIỜ HỌC NGỮ VĂN 
CHO HỌC SINH LỚP 11 BẬC THPT
 Người thực hiện: Lê Xuân Toàn
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THPT Hoàng Hóa 4
 SKKN thuộc lĩnh vực môn Ngữ Văn
THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC. 
TRANG BÌA. 1
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ. 2,3,4
1. Lý do chọn đề tài 
2. Mục đích nghiên cứu. 
3. Nhiệm vụ nghiên cứu. 
4. Đối tượng nghiên cứu. 
5. Phạm vi nghiên cứu. 
6. Phương pháp nghiên cứu. 
7. Lịch sử đề tài 
8. Cấu trúc của SKKN.. 
PHẦN II : NỘI DUNG. 5
Chương 1. 
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 6,7,8.
1. Cơ sở lý luận chung 6
2. Các khái niệm cơ bản. 7
3. Các góc độ tác động của đổi mới. 7
Chương 2. 
PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI. 8
1. Khảo sát số liệu. 8
2. Về phía giáo viên. 8
3. Về phía người học: 9
Chương 3. 10
THỰC NGHIỆM. 15
1. Tạo tâm thế học tập. 16
2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp. 17
3. Ứng dụng công nghệ thông tin. 17
4. Lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn. 18
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM. 18
1. Kết quả từ các phiếu hỏi. 19
2. Kết quả từ quan sát thực tế. 19
3. Kết quả kiểm tra. 19
PHẦN 3 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 20
1. Kết luận. 20
2. Kiến nghị 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 22
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
 Đổi mới căn bản, toàn diện là yêu cầu của giáo dục hiện nay. Việc xây dựng, áp dụng những phương pháp mới trong dạy học bộ môn để nâng cao hiệu quả dạy và học là yêu cầu phải được giải quyết. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề theo khối hiện nay, các môn xã hội bị coi nhẹ. Môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài tình trạng ấy.
 Thời gian qua, ngành giáo dục đã  thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học trong đó có môn Ngữ văn. Tuy nhiên, điều khiến cho những giáo viên dạy văn băn khoăn, trăn trở hơn hết đó là học sinh thường lựa chọn các môn học tự nhiên với mục tiêu chọn trường, ngành, nghề sau này có nhiều cơ hội tìm việc làm hơn. Nhiều học sinh cho rằng Ngữ văn là môn khoa học xã hội, tính ứng dụng không cao, không thiết thực với cuộc sống, công việc. Từ đó, dẫn đến tình trạng chán học văn, hoặc học mang tính đối phó. Học sinh thích học văn ngày càng ít đi.
 Vì vậy, đổi mới dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết cảm thông, yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang sách, thông qua từng tác phẩm là điều rất cần thiết. “Văn học là nhân học” học văn là để hình thành nhân cách con người. Và Ngữ văn là môn học quan trọng giúp học sinh có kỹ năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Từ đó tạo hứng thú trong học tập cho học sinh, khơi gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống tâm hồn của con người.
 Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng tâm hồn học sinh. Người thầy biết tổ chức, điều khiển, xây dựng hơngs tiếp cận mới đẻ phát huy tính tích cực sáng tạo, tạo hưng phấn, khơi gợi đam mê học tập của học sinh.
 Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị nhân văn, nhiều yếu tố văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao thoa, mai một. Từ thực tế ấy, đòi hỏi giáo viên dạy Ngữ văn - những kỹ sư tâm hồn phải nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình là vô cùng quan trọng và nhiều thử thách. Thực tế ấy đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn ngoài chuyên môn vững vàng cần có tâm thế tốt, luôn nhiệt huyết, yêu nghề, luôn trau dồi đổi mới phương pháp để tạo được hứng thú học tập.
 Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích cực cho học sinh dạy học theo hướng lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy đóng vai trò là người tổ chức, chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận bài học linh hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh trong dạy học Ngữ văn là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ học văn, học sinh luôn hứng thú, chủ động, yêu thích môn học, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học tôi chọn đề tài: “Hướng đổi mới giờ học ngữ văn cho học sinh lớp 11 bậc THPT ”.
2. Mục đích nghiên cứu
     Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là đổi mới, tìm được những hướng tiếp cận, phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh. Đồng thời, qua thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới việc học văn của học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Văn cho học sinh THPT.
Hơn nữa, qua đề tài này tôi mong rằng có thể góp phần nào đó trong việc  bồi dưỡng tâm hồn người học, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Học văn là làm cho tâm hồn mỗi con người phong phú thanh cao và yêu đời hơn”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp dạy học, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. Đề xuất biện pháp đổi mới, hướng tiếp cận bài học tạo được hứng thú.
4. Đối tượng nghiên cứu: 
Tìm hiểu phương pháp, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong việc dạy và học môn Ngữ văn  ở THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu: 
- Phạm vi kiến thức: Chương trình Ngữ văn bậc THPT.
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Học sinh các lớp được phân công giảng dạy tại nhà trường đang công tác.Thời gian: Từ tháng 09 năm 2016 đến tháng 05 năm 2017.
6. Phương pháp nghiên cứu:
-  Phương pháp điều tra (Phỏng vấn, phiếu). Phương pháp đối chứng.– Phương pháp nghiên cứu tài liệu. – Phương pháp kiểm tra.
7. Lịch sử đề tài: 
- Vấn đề nghiên cứu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu  như :
- “Đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học, cao đẳng đào tạo giáo viên THPT”. Hà Nội tháng 9/2003. [ 1 ].
- “Các phương pháp dạy học hiệu quả”- NXB trẻ, 2001. [ 2 ].
- M. Iacoplep. “Phương pháp và kỹ thuật lên lớp ở trường phổ thông”. NXB Giáo dục, 1975 – 1978. [ 3 ]. Tuy nhiên các tác giả chỉ chỉ đề cập ở mức độ khái quát, có tính chất lí luận, chứ chưa đi sâu tìm hiểu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT một cách cụ thể.
8. Cấu trúc của SKKN Gồm : 3 phần
          Phần I : Đặt vấn đề
                    Phần II : Nội dung
                   Phần III : Kết luận, kiến nghị
 PHẦN II : NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
 1. Cơ sở lý luận
 a. Cơ sở lí luận chung
 Đảng và Nhà nước ta đã luôn xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.Và như Jacques Delors đã nói : “Giáo dục là một trong những công cụ mạnh nhất mà chúng ta có trong tay để đào tạo nên tương lai”. [ 4 ]. Chúng ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời đại, đòi hỏi nền giáo dục nước ta có sự đổi mới, đổi mới căn bản, toàn diện để bắt kịp thời đại. 
 Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp... Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”. [ 5 ].
 Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. [ 6 ].
 Như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát triển bền vững của một quốc gia. Nhà nước ta luôn nhận thức rất rõ điều đó. Trong xu thế mới, điều kiện phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giáo dục càng được ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng nhu đổi mới toàn diện giáo dục, trong đó, việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là với môn Ngữ văn là điều rất cần thiết. Trong đó nhiệm vụ đầu tiên là làm cách nào để người học luôn sẵn tâm thế và yêu thích môn học, từ đó say mê, chủ động tích cực coi học tập là nhiệm vụ hàng đầu. Người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tìm hiểu, nghiên cứu, đổi mới tìm ra cách tiếp cận môn học, làm sao để học sinh không còn chán môn học nữa. 
 b. Các khái niệm cơ bản
 Với đề tài đã lựa chọn “ Hướng đổi mới giờ học ngữ văn lớp 11 bậc THPT” trước hết tôi muốn làm rõ một số vấn đề: Đổi mới là gì?
+ Đổi mới nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh vực/môn học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn học sinh  cần biết cái gì? Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung học vấn của một khoa học bộ môn nên thường mang tính “hàn lâm”, nặng về lý thuyết và tính hệ thống, nhất là khi người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các giai đoạn phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.
+ Thứ hai là đổi mới kết quả đầu ra, là nêu rõ kết quả  những khả năng hoặc kĩ năng mà học sinh mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi : chúng ta muốn học sinh biết và có thể làm được những gì?
Như vậy, có thể hiểu "đổi mới" là phương pháp, cách thức, góc độ tìm hiểu làm rõ một vấn đề, nội dung nào đó và hướng đến đạt được mục đích đề ra. Ở đây chúng ta có thể hiểu đó là hướng tiếp cận bài học, hướng tìm hiểu nội dung nhằm tạo hứng thú, say mê kích thích khả năng học tập của học sinh.
 Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ thành công và thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú còn chính là động lực thúc đẩy hoạt động của con người đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức mà không dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, nó đòi hỏi con người phải hoạt động tích cực, chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo. Hứng thú có nhiều tác dụng trong cuộc sống nói chung và trong dạy học nói riêng.
 c. Các góc độ tác động của sự đổi mới tạo hứng thú
 * Tác động của sự đổi mới tạo hứng thú trong cuộc sống
 Hứng thú có tác dụng duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người. Hứng thú định hướng tính tích cực của con người, làm con người chịu khó tìm tòi và sáng tạo. Hứng thú đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân cách con người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng hoạt động khác. Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
 * Tác động của sự đổi mới tạo hứng thú trong giờ học
Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân cách). Nó không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những  yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A. Ward thì:“ Người thầy trung bình chỉ biết nói. Người thầy giỏi biết giải thích. Người thầy xuất chúng biết minh họa. Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng” [ 7 ].
 Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh,  người học là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo Galileo Galilei). [ 8 ].
Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép buộc.
 Khi hứng thú học tập, người học sẽ: Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra. Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ ràng. Chủ động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học. Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khănHứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp đến cao: Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạnTìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một vấn đềSáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
 Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi đua học tập sôi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu đây chính là một trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tôi tin rằng quá trình dạy học nhất định sẽ đạt được kết quả cao. “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.”(Viện KHGD – “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.) [ 9 ]
 2. Cơ sở thực tiễn đề tài
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục phổ thông, trong đó có việc dạy và học môn Ngữ văn. Những năm gần đây, việc tích cực đổi mới, đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục của chúng ta đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều khó khăn, bất cập và cần tích cực đổi mới hơn nữa. Dạy và học môn Ngữ văn ở các trường THPT chưa đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả như mong muốn. Đặc biệt, sự mến mộ yếu thích của người học đối với môn học không còn nhiều mặn mà.
 * Khảo sát số liệu
     Khảo sát số liệu học sinh yêu thích hứng thú với môn học đầu năm học 2016 – 2017lớp 11 A4. Tổng số 40 học sinh, lớp 11A4, với 26 nữ, 14 nam.
- Mức độ hứng thú: 
Thích: 7 hs = 17.5%. BT: 23hs = 57.5%. Không thích: 10hs = 25%. 
- Chất lượng đầu năm: 
 Giỏi: 0. Khá: 4 = 10%. TB: 16 = 40%. Yếu 17 = 42.5%. Kém 3 = 7.5%.
- Chất lượng cuối năm: Nhìn chung không thay đổi là mấy.
 Nhận thấy, tỷ lệ học sinh yêu thích và hứng thú với môn học là không cao, chỉ chiếm 17.5%. Kết quả khảo sát qua bài kiểm tra  đánh giá kiến thức môn học của học sinh cũng cho thấy số lượng học sinh có điểm môn học yếu, kém cao chiếm 50%.
Theo tôi, Có  nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan.
 a. Về phía giáo viên
 Việc thiếu thốn về trang thiết bị dạy học như tranh ảnh minh họa, đồ dùng trực quan, dụng cụ nghe nhìn cho giáo viên cũng như học sinh khiến cho việc áp dụng dạy học theo phương pháp mới gặp nhiều khó khăn.
 Chính vì thế, dẫn đến việc dạy – học chay tràn lan, đơn điệu, nặng về thuyết giảng một chiều, để trò ghi chép rồi học thuộc ý của thầy. Cách học theo lối thụ động đó sẽ không gây được sự hào hứng tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ trong mỗi giờ học. Tình trạng các bài văn mẫu trên mạng, xuất bản bày bán tràn ngập nhà sách, học sinh sinh ra tính ỷ lại, lệ thuộc. Thi cử còn nặng kiến thức. Do đó, những kiến thức học sinh thu nhận được thiếu sâu sắc, không để lại những ấn tượng lâu dài.
 b. Về phía học sinh:
 Thực tế là đa số học sinh hiện nay không thích học môn Ngữ văn, không có hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức văn chương. Do tính đặc thù môn học,  là một môn học mang tính cảm xúc, tư duy hình tượng, chịu chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn hóa, tâm lí, cảm xúc, đòi hỏi người học phải có trí tưởng tượng phong phú. Đây cũng là môn học mà nội dung không chỉ hiện ra trên dạng câu từ mà nó còn bao hàm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa sâu xa (đặc biệt phần văn học), vì thế việc tiếp nhận môn học này đối với học sinh là rất khó khăn. Mà học sinh nhiều em rất thiếu lòng quyết tâm học tập, cứ khó khăn là nản, bỏkhông học, dẫn đến yếu kém rồi chán môn học đó.
 Như vậy, dạy học theo hướng đổi mới bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học môn Ngữ văn ở bậc THPT. Điều quan trọng đòi hỏi phải tổ chức hoạt động học tích cực,và sáng tạo làm cho học sinh say mê học tập. Dạy học theo hướng này có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh, tăng cường khả năng vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức bài học một cách máy móc. Qua nghiên cứu cơ sở thực tiễn, nghiên cứu đội ngũ giáo viên, học sinh và cơ sở thiết bị dạy học Ngữ văn, cùng với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Ngữ văn tôi nhận thấy đề tài hoàn toàn có khả năng thực thi ở trường THPT.
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI GIỜ HỌC NGỮ VĂN 
CHO HỌC SINH LỚP 11 BẬC THPT
  Trước đây, phương pháp dạy học thường thiên về truyền thụ, học ghi nhớ nhiều, học sinh tái hiện máy móc những điều được ghi, gây áp lực đối với người học. Từ đó tạo ra tâm lí sợ học, sợ học thuộc. Điều này phần nào đã thủ tiêu khả năng sáng tạo, tư duy của người học, biến người học thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những ý thuộc lòng, bằng những lời có sẵn của thầy cô, sách vở. Do đó, học sinh luôn lệ thuộc vào sách vở, học sinh không hào hứng chủ động, thiếu sáng tạo và thiếu tự tin.
 Làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn; làm thế nào để chất lượng học tập môn Ngữ văn được nâng cao và điều quan trọng là làm sao để người học luôn chủ động tích cực, say mê, tự tin trong học tập; biết vận dụng kiến thức vào thực tế; chủ động khám phá, phát hiện những cái hay, cái đẹp, các giá trị tác phẩm văn chương; bồi dưỡng tình yêu đối với văn học, bồi dưỡng tâm hồn, giá trị nhân văn luôn là điều trăn trở đối với tôi và những đồng nghiệp. 
 Xuất phát từ thực trạng ấy, từ thực tế giảng dạy của bản thân, qua trao đổi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, mong góp phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy và học Ngữ văn hiện nay, cải thiện được ý thức học tâp của học sinh đối với môn Ngữ văn ở bậc THPT. Dưới đây, tôi có sử dụng tài liệu tham khảo " SGK lớp 11 - tập 1,2". [ 10 ]. 
1. Tạo tâm thế học tập
 a. Tác động bằng tình cảm
 Để học sinh luôn chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với môn học, trước hết, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm huyết của mình, phải để người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài giảng.
Thực sự quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm tư của học trò. Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo được niềm tin, xóa bớt được khoảng cách giữa giáo viên với học sinh (tâm lí, tuổi tác), tạo ra không khí học tập thân thiết, gần gũi Theo quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu quí, trân trọng thầy cô đến thích học môn học đó là một khoảng cách rất ngắn. Từ đó học sinh yêu thích, say mê học môn học mà mình dạy.
 b. Xây dựng không khí lớp học
Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần. Chỉ có sự tận tình, tổ chức giờ học một cách khoa học, sinh động  mới kích thích sự hứng thú học tập trong học sinh. Tạo ra bầu không khí học thoải mái, tích cực, có tính thi đua giữa các học sinh là rất cần thiết.
 Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng dạy học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt động nhận thức trong học sinh. Có nhà giáo dục đã từng nói “Một ông thầy mà không dạy được cho học trò ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Cho nên, giáo viên phải biết cách tạo không khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo không khí lớp học bằng dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn hay, bằng cách đặt vấn đề bất ngờ, gợi được sự chú ý, bằng các tranh ảnh, sơ đồ để gợi hứng thú, kích thích trí tò mò muốn khám phá bài học cho học sinh.
 Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng, một mẩu truyện về nhà văn sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích cực; học sinh sẽ bị cuốn hút vào những giai thoại, hay những liên hệ mà giáo viên kể. Từ đó học  sinh sẽ hứ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_doi_moi_gio_hoc_ngu_van_cho_hoc_sinh_lop_11_bac_t.doc