SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 4 viết các kiểu mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả

SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 4 viết các kiểu mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả

Việc giáo dục thế hệ trẻ trong thời đại hiện nay theo khuynh hướng giao tiếp, giúp trẻ động não suy nghĩ, chủ động sáng tạo, phát huy tối đa năng lực của bản than.Từ đó các em có thể phát triển toàn diện nhân cách phù hợp với sự phát triến của thời đại và hội nhập quốc tế.

Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần hình thành, phát triển nhân cách và cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Môn Tiếng việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “ Nghe - nói - đọc - viết”. Trong các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn của môn Tiếng việt thì phân môn Tập làm văn có tính chất tích hợp của các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là: bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy, trao đối tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết.Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.

Với phân môn Tập làm văn lớp 4, các em phải làm quen với nhiều thể loại văn như: Miêu tả, kể chuyện . mà mỗi thể loại đòi hỏi các em có kĩ năng và phương pháp làm bài khác nhau. Riêng văn miêu tả ở lớp 4 được phân ra gồm : Miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật. Mặc dù đây là những đối tượng khá gần gũi và quen thuộc với các em song các em lại thiếu vốn từ ngữ để diễn tả những điều mình quan sát được. Hơn thế nữa lên đến lớp 4 học sinh bắt đầu làm quen và thực hiện một bài văn hoàn chỉnh với đầy đủ 3 phần ( Mở bài – Thân bài – Kết bài). Một bài văn cho dù có hay đến đâu nhưng nếu phần mở bài không hấp dẫn, không lôi cuốn sẽ dẫn đến mất tập trung ở người đọc. Cùng với việc mở bài là việc kết bài, nếu có một kết bài hay sẽ để lại trong lòng người đọc ấn tượng khó quên về bài văn. Do vậy, đối với tôi phần mở bài và kết bài trong bài văn miêu tả ở lớp 4 có một vai trò và tầm quan trọng khá đặc biệt. Từ những suy nghĩ đó, tôi đã trăn trở, tìm tòi nghiên cứu nhiều tài liệu và mạnh dạn trao đổi với bạn đọc một số biện pháp “Hướng dẫn học sinh lớp 4 viết các kiểu mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả” .

 

doc 26 trang thuychi01 26831
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 4 viết các kiểu mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Së GI¸O DôC Vµ §µO T¹O THANH HO¸
PHßNG GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Hµ TRUNG
 ======& ========
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
§Ò tµi
Híng dÉn Häc sinh líp 4 viÕt c¸c kiÓu më bµi,
kÕt bµi Trong bµi v¨n miªu t¶
 Người thực hiện : Đỗ Thị Thúy Hường
 Chức vụ : Giáo viên
 Đơn vị :Trường Tiểu học Hà Bình
 SKKN thuộc lĩnh vực ( Môn) : Tiếng việt
Hµ trung n¨m 2016
Mục lục
STT
Nội dung
Trang
1
A.Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
1. Mục đích nghiên cứu .
1. Đối tượng nghiên cứu.
1. Phương pháp nghiên cứu.
1
1
2
2
2
B.Nội dung 
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2
3
5
19
3
C. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị
20
20
A. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
Việc giáo dục thế hệ trẻ trong thời đại hiện nay theo khuynh hướng giao tiếp, giúp trẻ động não suy nghĩ, chủ động sáng tạo, phát huy tối đa năng lực của bản than.Từ đó các em có thể phát triển toàn diện nhân cách phù hợp với sự phát triến của thời đại và hội nhập quốc tế. 
Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần hình thành, phát triển nhân cách và cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Môn Tiếng việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “ Nghe - nói - đọc - viết”. Trong các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn của môn Tiếng việt thì phân môn Tập làm văn có tính chất tích hợp của các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là: bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy, trao đối tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết.Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. 
Với phân môn Tập làm văn lớp 4, các em phải làm quen với nhiều thể loại văn như: Miêu tả, kể chuyện. mà mỗi thể loại đòi hỏi các em có kĩ năng và phương pháp làm bài khác nhau. Riêng văn miêu tả ở lớp 4 được phân ra gồm : Miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật. Mặc dù đây là những đối tượng khá gần gũi và quen thuộc với các em song các em lại thiếu vốn từ ngữ để diễn tả những điều mình quan sát được. Hơn thế nữa lên đến lớp 4 học sinh bắt đầu làm quen và thực hiện một bài văn hoàn chỉnh với đầy đủ 3 phần ( Mở bài – Thân bài – Kết bài). Một bài văn cho dù có hay đến đâu nhưng nếu phần mở bài không hấp dẫn, không lôi cuốn sẽ dẫn đến mất tập trung ở người đọc. Cùng với việc mở bài là việc kết bài, nếu có một kết bài hay sẽ để lại trong lòng người đọc ấn tượng khó quên về bài văn. Do vậy, đối với tôi phần mở bài và kết bài trong bài văn miêu tả ở lớp 4 có một vai trò và tầm quan trọng khá đặc biệt. Từ những suy nghĩ đó, tôi đã trăn trở, tìm tòi nghiên cứu nhiều tài liệu và mạnh dạn trao đổi với bạn đọc một số biện pháp “Hướng dẫn học sinh lớp 4 viết các kiểu mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả” .
2. Mục đích nghiên cứu .
	Với Học sinh 
	 Giúp Học sinh lớp 4 có hứng thú viết các kiểu mở bìa và kết bài trong bài văn miêu tả ở lớp 4.
	 Rèn cho các em kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc. 
	 Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc. 
	 Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em. 
	Tạo cho các em có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
	Với giáo viên 
	 Giúp giáo viên nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả đặc biệt là cách dạy viết mở bài và kết bài cho học sinh lớp 4 để từ đó vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt. 
	 Tự tòm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn nói chung và trong dạy học sinh lớp 4 viết văn miêu tả nói riêng. 
	Giúp giáo viên nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
3. Đối tượng nghiên cứu.
	Thể loại văn miêu tả lớp 4 nói chung và các cách mở bài và kết bài trong văn miêu tả nói riêng .
	Thực trạng dạy và học các cách mở bài và kết bài trong bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 trường trường Tiểu học Hà Bình.
4 . Phương pháp nghiên cứu.
	Để tiến hành làm đề tài này tôi đã thực hiện các phương pháp sau;
	- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Bản thân tôi đã đọc tài liệu liên quan đến đề tài .Nghiên cứu nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4 mạch kiến thức: Dạy viết văn miêu tả. 
	- Phương pháp quan sát sư phạm: Sau đó tôi tiến hành điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo viên và học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy- học phân môn Tập làm văn trong trường Tiểu học. So sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các giai đoạn với nhau trong cùng một lớp, đối chứng cả với những năm học trước. Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học Tập làm văn của học sinh lớp mình, học sinh lớp khác trong khi đi dự giờ, quan sát phương pháp sư phạm của giáo viên giảng dạy, quan sát chất lượng viết mở bài và kết bài của học sinh ở từng dạng miêu tả khác nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng bài viết học sinh. 
	- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm : Tôi tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra và phương pháp tổng hợp số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng viết mở bài và kết bài trong bài văn miêu tả của từng học sinh, tôi mô tả và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp các số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân. 
B. Nội dung 
1. Cơ sở lí luận 
 Để thực hiện mục tiêu “Hình thành và phát triển ở Học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (Nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Cũng như Sách giáo khoa Tiếng Việt ở các lớp 1,2,3, SGK Tiếng Việt 4 lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản. Quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương pháp dạy học. Về nội dung, thông qua các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, kể chuyên, Tập làm văn, SGK Tiếng Việt 4 tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc để Học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị những tri thức và phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Về phương pháp dạy học, các kĩ năng nói trên được dạy thông qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.
Không những thế quan điểm biên soạn Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 còn dựa trên tích hợp nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. Hướng tích hợp này được SGK Tiếng Việt 4 thể hiện thông qua hệ thống các chủ điểm học tập. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn ( Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu,Kể chuyện, Tập làm văn) trước đây ít gắn bó với nhau nay được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc; các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước.
Phân môn Tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, viết và đọc. Vì thế phân môn Tập làm văn là một trong các phân môn khó đối với cả người dạy và người học. Chương trình Tập làm văn lớp 4 ngoài việc củng cố các kiến thức học sinh đã học về văn viết thư, ngoài ra học sinh còn được học văn kể chuyện và văn miêu tả. Trong đó, văn miêu tả chiếm thời lượng rất nhiều so với quỹ thời gian ( từ tuần 14 – tuần 34),bao gồm tất cả là 30 tiết với các nội dung: Khái niệm miêu tả; Miêu tả đồ vật; Miêu tả cây cối; Miêu tả con vật. 
Miêu tả là lấy nét vẽ hay câu văn để biểu hiện các chân tướng của sự vật, giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy. Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mỹ, giúp người đọc hình dung một cách cụ thể hình ảnh của sự vật thông qua những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc thể hiện cảm xúc thẩm mỹ của người viết. 
Dạy văn miêu tả ở lớp 4 còn làm cơ sở ban đầu để các em học tốt văn miêu tả ở lớp 5. Vì đây là thể loại mới nên giáo viên gặp không ít khó khăn, trăn trở khi hướng dẫn. Để bài viết của các em đạt hiệu quả cao đòi hỏi cả người dạy và người học phải hiểu được khái niệm, cấu tạo của từng phần trong dàn bài văn miêu tả. Trong đó, phần mở bài và kết bài là một trong những yếu tố quan trọng giúp học sinh vào đề và kết thúc vấn đề một cách nhẹ nhàng, tạo ấn tượng cho người đọc.
 Phần mở bài và kết bài trong một bài văn, có một vị trí hết sức quan trọng. Mở bài là lời giới thiệu với bạn đọc đến thăm vườn văn của mình thì kết bài là lời nhắn gửi, lưu lại ý tưởng của bài văn, mang theo cảm xúc sâu sắc, trong lòng còn giữ lại những kí ức đẹp đẽ. Trong giảng dạy, không ít giáo viên còn băn khoăn một số công đoạn để hoàn thiện bài văn, đó là phần mở bài, kết bài ; mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; kết bài mở rộng hoặc không mở rộng. Đây là một nội dung hoàn toàn mới mẻ đối với giáo viên. Trong khi đó, sách giáo khoa và các tài liệu dạy học chỉ cung cấp cho giáo viên một số kiến thức sơ đẳng về khái niệm các cách mở bài, kết bài nên khi lên lớp giáo viên còn lúng túng, gặp nhiều vướng mắc. Vậy làm thế nào để mở bài, kết bài đảm bảo yêu cầu đề ra, không sơ sài, không quá dài so với bố cục bài văn, không xa đề, không hời hợt, nhàm chán, khuôn mẫu. Làm thế nào để khi lên lớp giáo viên có thể đủ khả năng tổ chức cho học sinh học tập, để phân định, diễn giải, minh hoạ một cách thấu đáo những nội dung nói trên. Xuất phát từ những yếu tố vừa nêu trên, tôi nghiên cứu một số biện pháp “Hướng dẫn học sinh lớp 4 viết các kiểu mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả” .
2.. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.Thực trạng chung
Chương trình phân môn Tập làm văn trước đây, cả giáo viên và học sinh phải tự mò mẫm từng bước đi để đến với bài văn. Song cấu trúc chương trình Tiểu học hiện nay đã xây dựng theo cấu trúc từ những khái niệm thể loại, xây dựng đoạn văn (mở bài, thân bài, kết bài ), sau đó mới hoàn chỉnh một đề bài. Vì thế, các em không chỉ nắm được những yêu cầu cơ bản của từng dạng đề bài mà còn tích lũy được nhiều kiến thức bổ trợ khác nhau. Chất lượng bài làm của học sinh cũng nâng lên rõ rệt, một số em biết viết nhiều cách vào bài, kết bài khác nhau còn giáo viên có nhiều thời gian để định hướng cụ thể cho các em viết các phần của bài văn, đồng thời tự tin hơn khi dạy các tiết tập làm văn. 
2.2.Thực trạng của giáo viên
Giáo viên Tiểu học là“ông thầy tổng thể”, phải dạy nhiều môn học, không chuyên sâu dạy môn văn nên chất lượng dạy phân môn Tập làm văn còn nhiều bất cập. Giáo viên còn lúng túng khi tổ chức hướng dẫn cho học sinh hoàn thiện các công đoạn để tạo ra một bài văn hoàn chỉnh sao cho vừa đảm bảo yêu cầu đề ra, vừa đảm bảo tính chất của văn học. 
Thực tế còn không ít giáo viên chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của việc quan sát, tìm ý, viết đoạn văn nên chất lượng giờ tập làm văn, lập dàn ý và giờ dạy tập làm văn viết đoạn văn miêu tả còn hạn chế. Nhiều giáo viên vẫn chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn các em hoàn thành những nội dung yêu cầu của bài tập dựa vào gợi ý trong sách giaos khoa và sách giáo viên.
 Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm, phát huy hết năng lực của học sinh cũng như chú ý giúp cho các em biết rèn dũa câu văn, ý văn.
Sự chuẩn bị của giáo viên cho tiết dạy Tập làm văn chưa chu đáo, chưa cụ thể nên hiệu quả tiết học chưa cao. 
 Phương pháp dạy học ở phân môn này còn đơn điệu, chủ yếu là thầy hỏi – trò trả lời nên các em nhàm chán, chưa gây hứng thú học tập cho học sinh. 
 Ý thức tự học, nghiên cứu tài liệu của giáo viên chưa cao nên khả năng vốn văn còn nhiều hạn chế.
Trong một tiết dạy, giáo viên mới chỉ tập trung vào các bước lên lớp, còn ngôn từ diễn giải, minh họa, khúc chiết câu, từ của giáo viên khô khan, “bí” từ ngữ, chưa khơi dậy ở học sinh sự hứng thú, đam mê học văn, chưa dẫn dắt được các em vào “thế giới văn”. Khi học sinh làm bài theo yêu cầu kết bài mở rộng nhưng học sinh chỉ dừng lại kết bài không mở rộng, giáo viên chưa chỉ rõ cho học sinh đi đến yêu cầu bài tập, chỉ nói qua loa vài câu vì thực tế giáo viên chưa tự tin để xây dựng các kiểu mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng 
Một số giáo viên còn coi nhẹ phần mở bài hay kết bài của bài văn miêu tả, luôn cho rằng trong bài văn miêu tả học sinh biết tả những đặc điểm nổi bật của đối tượng miêu tả nghĩa là bài đạt yêu cầu.
 Trình độ và năng lực của giáo viên chưa đồng đều; một số giáo viên chưa nắm vững được yêu cầu cần đạt của phần mở bài, kết bài nên chưa phân định rạch ròi kiến thức của các kiểu mở bài, kết bài (đặc biệt là mở bài gián tiếp và kết bài mở rộng). Đa số giáo viên mới cung cấp cho học sinh nắm một cách máy móc các khái niệm trong sách giáo khoa về các kiểu mở bài, kết bài những chưa lí giải cụ thể để học sinh hiểu một cách thấu đáo làm thế nào để có một mở bài gián tiếp và kiểu bài mở rộng. Hay nói cách khác, giáo viên chưa hướng dẫn cho học sinh nắm được các phương thức để vào bài, kết bài. 
2.3. Thực trạng của học sinh.
Xu thế hiện nay, phần lớn các em thích học toán, ngại học Tiếng việt, nhất là phân môn Tập làm văn. Vì thế, học sinh chưa hứng thú học tập, nhất là đối với những bài rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài; không khí lớp học rất trầm, chỉ một số ít học sinh tham gia học tập. 
Một số học sinh chưa xác định được trọng tâm của đề bài nên đoạn viết của các em không biết viết bắt đầu từ đâu, phải viết những gì, viết như thế nào, thậm chí viết còn sai đề, xa đề. 
Trong các tiết học phân môn tập làm văn lớp 4, đặc biệt là ở các bài: Luyện tập xây dựng mở bài ( hoặc kết bài ) trong bài văn miêu tả, nhiều học sinh gặp lúng túng khi phân biệt các mở bài mẫu SGK đưa ra như: bài tập 1 trang 10 (SGK tập 2) trường hợp nào là mở bài trực tiếp, trường hợp nào là mở bài gián tiếp ; hoặc kết bài mẫu SGK đưa ra như bài tập 1 trang 11 (SGK tập 2), trường hợp nào là kết bài mở rộng, trường hợp nào là kết bài không mở rộng ; hoặc khi giáo viên yêu cầu viết đoạn mở bài ( hoặc kết bài ) với đề bài cho trước theo hai cách khác nhau thì các em không thể trình bày được.
Vốn từ các em còn ít, ý còn nghèo nên chất lượng bài viết chưa cao: nội dung sơ sài, diễn đạt lủng củng, khô khan, thiếu tính sáng tạo, thiếu sự hồn nhiên ngây thơ hoặc máy móc, rập khuôn các bài văn mẫu; viết chủ yếu là mở bài kiểu trực tiếp và kết bài kiểu không mở rộng, không biết liên kết câu và lồng cảm xúc của bản thân vào bài viết. 
Nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm của các em còn viết theo một khối mòn khuôn mẫu, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa
Chỉ có một số ít học sinh có tính sáng tạo biết cách viết khi dựa vào các mở bài 
( hoặc kết bài ) mẫu trong sách giáo khoa để viết theo cách của riêng mình. Còn lại phần lớn các em phải dựa dẫm, lấy nguyên ý của giáo viên để viết sao cho cố hoàn thành xong yêu cầu của bài tập đề ra mà chưa hiểu rõ làm thế nào để viết cho đủ ý, cho hay.
2.4. Kết quả của thực trạng:
Xuất phát từ thực trạng trên, khi thực hiện chương trình của tuần 15 tôi đã tiến hành khảo sát tình hình viết mở bài, kết bài cho bài văn miêu tả ở lớp 4B với đề bài như sau:
Đề bài : Hãy viết đoạn mở bài và kết bài cho bài văn miêu tả đồ vật mà em yêu thích.
Kết quả thu được như sau
Tổng số HS
HS có mở bài và kết bài sáng tạo, gây ấn tượng cho người đọc
HS có mở bài và kết bài đủ ý.
HS chưa biết viết, viết qua loa mở bài và kết bài .
21
2 = 9,5 %
12 = 57,1 %
7 =33,4 %
Với kết quả kiểm tra như trên, tôi thấy còn nhiều học sinh chưa biết viết, viết qua loa phần mở bài và kết bài trong bài văn miêu tả (chiếm 33,4 %). Học sinh có mở bài và kết bài sáng tạo còn rất ít (chiếm 9,5 %). Vậy làm thế nào để giúp học sinh hứng thú, viết được các kiểu mở bài và kết bài trong bài văn miêu tả? Tôi thiết nghĩ và mạnh dạn áp dụng một số giải pháp “Hướng dẫn học sinh lớp 4 viết các kiểu mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả” như sau:
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1 Giải pháp 1: Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để từ đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên lớp:
Chúng ta đã biết, tâm lý chung  của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em quan sát,  cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có cách cảm, cách nghĩa sâu sắc khi miêu tả.
Ở tuổi học sinh Tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một quá trình. Do đó những tri thức để các em tiếp thu được phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Trí tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu.
Các em đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi vật xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng khái quát hoá .Về tình cảm các em rất nhạy cảm với vẻ đẹp của cảnh vật xung quanh hay của thiên nhiên đất nước. Các em dễ xúc động và bắt đầu biết mơ ước có trí tưởng tượng phong phú. Thích ghi lại các vấn đề mà mình đã quan sát được. Song vốn ngôn ngữ chưa phong phú. Sắp xếp ý chưa có hệ thống và diễn đạt còn thiếu mạch lạc.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải giàu cảm xúc, tạo nên cái " hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện.
3. 2.Giải pháp 2: Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học theo qui trình chặt chẽ , logic khoa học.
Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn bị cũng chính là kế hoạch cho công việc mình định làm, đó là việc làm đầu tiên, tất yếu của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người giáo viên. Bài soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế hoạch bài học.
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng thiết thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả năng lực, phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu học sinh, năng lực ngôn ngữlòng yêu nghề, niềm tin sự nhiệt tình và lòng đam mê nghề nghiệp. Giáo án có chất lượng phải chuyển hoá được những kiến thức của sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên tức là Kế hoạch bài học phải được thực hiện hoá qua bài giảng trên lớp chứ không thể là giấy vô tri, vô giác chỉ để giám hiệu ký duyệt cho "đủ thủ tục"
Giáo viên cần nhận xét sâu sắc tầm quan trọng của việc chuẩn bị kế hoạch bài học trước khi lên lớp, kế hoạch ấy có thể được ghi chép lại cẩn thận, cũng có thể là tự suy nghĩ sắp xếp trong trí óc miễn là nó phải được thực hiện một cách nghiêm túc và hết sức tự giác. Có kế hoạch bài giảng chu đáo tức là giáo viên đã chuẩn bị tốt mọi nội dung thực hiện trên lớp, từ tiết lý thuyết đến các tiết thực hành xây dựng đoạn văn và tiết trả bài, từ phần kiểm tra bài cũ đến phần củng cố bài học
Qua nghiên cứu thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra các bước của việc soạn kế hoạch bài học một bài cụ thể như sau:
 Bước 1: Xác định mục tiêu bài học
 Bước 2: Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học
 Bước 3: Lựa chọn phương pháp dạy học
 Bước 4: Thiết kế các hoạt động dạy học
Muốn có đầy đủ thông tin và kiến thức cho một bài giảng, thực hiện được tốt các giai đoạn trên, người giáo viên cần không ngừng học tập nâng cao trình độ, tham gia đủ các lớp học chuyên môn, các buổi hội thảo do nhà trường và các cấp quản lý triển khai, chịu khó sưu tầm các loại sách vở liên quan đến chuyên môn, tự lập cho mình tủ sách riêng để tiện tra cứu khi cần thiết. Đặc biệt trong thời đại mà khoa học công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ, người giáo viên hơn ai hết phải là người đi đầu trong việc tự học tập để tiếp thu khoa học công nghệ thông tin hiện đại ấy. Việc tra

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_dan_hoc_sinh_lop_4_viet_cac_kieu_mo_bai_ket_bai_t.doc