SKKN Giúp học sinh lớp một học tốt dạng giải toán có lời văn
Bậc tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh tiểu học. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về tự nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị các phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng tình cảm. Mục tiêu nói trên được thực hiện thông qua việc dạy, học các môn học và thực hiện các hoạt động có định hướng theo yêu cầu giáo dục. Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí quan trọng. Toán học có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức cần thiết cho đời sống sinh hoạt. Đó là công cụ để học các môn học khác và nhận thức thế giới xung quanh.
Môn Toán có khả năng giáo dục lớn, nó có nhiều khả năng để phát triển tư duy lô gíc, bồi dưỡng và phát triển các thao tác trí tuệ cần thiết để nhận thức thế giới thực như trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự đoán. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp giải quyết các vấn đề có căn cứ khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng trong việc phát triển trí thông minh, tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo trong việc hình thành và rèn luyện nề nếp, sáng tạo có phong cách và tác phong làm việc khoa học, hình thành nhân cách của con người mới. Với mỗi người giáo viên vấn đề quan trọng không phải chỉ làm sao dạy được cho học sinh các kiến thức trong chương trình mà còn phải nắm vững khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán có ý thức và kế hoạch khai thác khả năng giáo dục đó thông qua các biện pháp sư phạm cụ thể nhằm góp phần đào tạo học sinh thành những người có nhân cách, phát triển toàn diện.
Trên quan điểm đó, để giúp các em học tốt môn Toán thì giáo viên cần biết lựa chọn, vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp để phát huy hiệu quả nhất trong từng bài dạy nhằm gây hứng thú cho học sinh, giúp các em biết vận dụng những điều đã học vào đời sống thực tiễn, từ đó sẽ làm nảy sinh hoạt động sáng tạo.
A . MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài. Bậc tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh tiểu học. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về tự nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị các phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng tình cảm. Mục tiêu nói trên được thực hiện thông qua việc dạy, học các môn học và thực hiện các hoạt động có định hướng theo yêu cầu giáo dục. Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí quan trọng. Toán học có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức cần thiết cho đời sống sinh hoạt. Đó là công cụ để học các môn học khác và nhận thức thế giới xung quanh. Môn Toán có khả năng giáo dục lớn, nó có nhiều khả năng để phát triển tư duy lô gíc, bồi dưỡng và phát triển các thao tác trí tuệ cần thiết để nhận thức thế giới thực như trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự đoán. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp giải quyết các vấn đề có căn cứ khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng trong việc phát triển trí thông minh, tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo trong việc hình thành và rèn luyện nề nếp, sáng tạo có phong cách và tác phong làm việc khoa học, hình thành nhân cách của con người mới. Với mỗi người giáo viên vấn đề quan trọng không phải chỉ làm sao dạy được cho học sinh các kiến thức trong chương trình mà còn phải nắm vững khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán có ý thức và kế hoạch khai thác khả năng giáo dục đó thông qua các biện pháp sư phạm cụ thể nhằm góp phần đào tạo học sinh thành những người có nhân cách, phát triển toàn diện. Trên quan điểm đó, để giúp các em học tốt môn Toán thì giáo viên cần biết lựa chọn, vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp để phát huy hiệu quả nhất trong từng bài dạy nhằm gây hứng thú cho học sinh, giúp các em biết vận dụng những điều đã học vào đời sống thực tiễn, từ đó sẽ làm nảy sinh hoạt động sáng tạo. Là một giáo viên dạy lớp 1, bản thân tôi nhận thấy môn Toán là một trong những môn häc có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là đối với học sinh lớp 1 lại càng quan trọng hơn. Kiến thức Toán ở lớp 1 là kiến thức bước đầu từ nhận biết các số, dấu phép tính, nhận biết một số hình và n©ng cao dần thực hiện các phép tính cộng, trừ và giải toán, bên cạnh đó môn Toán còn góp phần vào phát triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích cho các em trí tưởng tượng, óc khám phá, hình thành nhân cách cho các em. Thấy được tầm quan trọng của môn Toán nên tôi đã đi sâu tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu ra những biện pháp mới để giảng dạy môn Toán thật tốt giúp học sinh chủ động tiếp thu môn Toán một cách nhẹ nhàng thông qua hoạt động học tập, giúp học sinh sáng tạo trong giải toán. Mà đặc biệt là việc giải bài toán có lời văn đối với học sinh lớp 1. Xuất phát từ những vÊn đề trên năm học 2013 – 2014 tôi bắt đầu nghiên cứu về giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1. Năm học 2014 – 2015 tôi thực hiện đề tài này và qua hai năm áp dụng tôi xin mạnh dạn trình bày một số biện pháp “Giúp học sinh lớp một học tốt dạng giải toán có lời văn” lên ban Giám hiệu, Hội đồng khoa học các cấp và quý thầy cô giáo đồng nghiệp cùng tham khảo. II. Mục đích nghiên cứu. - Nghiên cứu việc dạy học giải toán có lời văn nhằm phát hiện những khó khăn, hạn chế còn tồn tại cả về nội dung và phương pháp. Từ đó có những đóng góp và bổ sung, điều chỉnh cách hướng dẫn học sinh để nâng cao hiệu quả giảng dạy. - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá thể, phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. - Dạy giải bài toán có lời văn là giúp học sinh lớp 1 dễ hiểu và nhớ lâu cách giải bài toán, nó góp phần gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh, một môn học được coi là khô khan, hóc búa. Từ đó giúp các em lĩnh hội được tri thức, củng cố và khắc sâu tri thức môn học. Cụ thể: + Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của một bài toán có lời văn lớp 1. + Đọc hiểu - phân tích - tóm tắt bài toán. + Giải toán đơn về thêm (bớt) bằng một phép tính cộng (trừ). + Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số. + Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau. III. Đối tượng nghiên cứu : - Đối tượng: Học sinh khối Mét, đặc biệt là học sinh lớp 1A năm học 2013 – 2014 và 2014 - 2015 Trường Tiểu học Bắc Lương – Thọ Xuân. - Tài liệu : + Sách giáo khoa Toán 1. + Sách giáo viên Toán 1. + Chuẩn kiến thức kĩ năng Toán lớp 1. + Vở bài tập Toán của học sinh khối 1 + Các phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học. IV. Phương pháp nghiên cứu : Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau : a. Phương pháp điều tra: Giáo viên thường bước đầu tìm hiểu thông tin về học sinh như hoàn cảnh gia đình, năng khiếu, năng lực học tập của các em. Thông qua đó giáo viên lên kế hoach, biện pháp thực hiện. b. Phương pháp trực quan: Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động trực tiếp bằng trực quan trên các hình ảnh, hiện tượng, vật cụ thể để dựa vào đó nắm bắt được kiến thức, kĩ năng của môn Toán. c. Phương pháp gợi mở vấn đáp: Là phương pháp sử dụng một hệ thống các câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ, lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng bước dẫn đến kết luận cần thiết, giúp học sinh tự mình tìm ra kiến thức mới. d. Phương pháp giảng giải minh hoạ: Phương pháp này dùng lời nói để giải thích, kết hợp với các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích. e. Phương pháp thực hành luyện tập: Là phương pháp dạy học liên quan đến hoạt động thực hành luyện tập các kiến thức, kĩ năng của môn học, chiếm 60% tổng thời gian dạy học Toán. Vì vậy phương pháp này được thường xuyên sử dụng trong dạy học Toán ở tiểu học, giúp học sinh được luyện tập, thực hành như: - Làm trên bảng lớp. - Làm trên bảng con của học sinh. - Luyện tập Toán trong vở . - Làm trong phiếu học tập. B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận: Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước cần có những con người năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với điều kiện đổi mới đang diễn ra hàng ngày. Trong khi đó cách dạy học theo phương pháp cũ có sự mất cân đối giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò, có những hạn chế nhất định như tiếp thu trí thức thụ động, hạn chế phát triển tư duy, không bộc lộ và phát triển năng lực cá nhân. Vì vậy cùng với đổi mới nội dung chương trình thì đổi mới phương pháp dạy học có vị trí hết sức quan trọng và cần thíết là việc làm thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học Toán nói riêng, người giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt động học tập để phát triển năng lực cá nhân. Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh, huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm bản thân để học sinh chiếm lĩnh tri thức rồi vận dụng các tri thức đó trong thực hành. Tạo cho học sinh thói quen làm việc tự giác, chủ động, không rập khuôn, máy móc, biết tự đánh giá và đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn. Đặc biệt là giúp học sinh có niềm tin, niềm vui trong học tập. Đồng thời tạo điều kiện để học sinh phát huy năng lực sở trường của mình, biết ứng dụng kiến thức mới trong bài học vào thực tế. Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học không loại bỏ phương pháp dạy học truyền thống mà phải vận dụng một cách hợp lý biết cách lồng ghép giữa phương pháp cũ và phương pháp mới thông qua hoạt động học tập của học sinh, từ đó các em thu nhận tri thức mới và rèn luyện phát triển kĩ năng mới. Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc nhau, có liên quan tới cuộc sống xảy ra hằng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn là ở chỗ: làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải, những phép tính thích hợp, từ đó tìm ra được đáp số của bài toán. Hiện nay do nhu cầu đổi mới giáo dục nên ngay từ lớp 1, học sinh đã được làm quen với việc giải toán có lời văn, đây là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình môn Toán ở Tiểu học. Việc dạy các em nắm bắt được cách giải bài toán có lời văn ngay từ lớp 1là việc làm thiết thực, giúp các em dễ dàng tiếp thu, tôi luyện và trang bị kiến thức để các em tiếp tục học tốt ở các lớp sau. Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra yêu cầu cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải, đưa ra câu lời giải kèm phép tính và đáp số của bài toán. II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm Như chúng ta đã biết dạy học Toán không chỉ giúp các em biết tính toán mà còn giúp các em phát triển các năng lực trí tuệ như: Quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp. Song để đạt hiệu quả cao trong dạy học Toán không phải là dễ, nó đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học sao cho phù hợp với các đối tượng học sinh, phù hợp với từng nội dung bài học, đặt biệt là phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh. Theo bản thân tự thống kê, trong chương trình Toán 1: Từ tuần 18 đến hết tuần 28. Giai đoạn này học sinh học về các số trong phạm vi 100, đo độ dài, giải bài toán. Đặc biệt là tiết 84 (tuần 21) học sinh học về giải toán có lời văn. Từ tuần 29 đến hết tuần 35. Học sinh học về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 100, đo thời gian. Giai đoạn này học sinh thường xuyên được rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn. Qua dự giờ thăm lớp, trao đổi một số kinh nghiệm với các đồng chí giáo viên trong khối 1, qua tìm hiểu sách báo, tài liệu, qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy ở trường tôi nhận thấy: 1. Về phía giáo viên. Trong dạy học môn Toán nói chung, dạy học giải toán có lời văn nói riêng, hình thức tổ chức các hoạt động học tập còn đơn điệu, việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa cao, phương pháp dạy học chưa linh hoạt nên các em học sinh lớp 1 nắm bài học chưa sâu, dẫn đến kết quả học tập của các em còn hạn chế, chưa phát huy hết khả năng của mình. Sở dĩ có tình trạng trên là do bản thân mỗi đồng chí giáo viên chưa thấy hết ý nghĩa, tác dụng vai trò của thầy trong giờ học toán. Mà đặc biệt là một số giáo viên khi dạy học toán chưa gắn liền hoạt động dạy học với ứng dụng thực tiễn, chưa tạo ra điều hấp dẫn để học sinh hứng thú học tập. Còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các dạng giải toán có lời văn, giáo viên chỉ chú trọng đi sâu vào phần hướng dẫn học sinh trình bày bài giải mà chưa giúp các em hiểu được bài toán. Bên cạnh đó học sinh luyện giải toán trong bảng con chưa nhiều, giáo viên chưa nhận xét kĩ những lỗi sai của học sinh. Tôi nghĩ rằng nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên là do giáo viên ít đầu tư vào việc nghiên cứu bài giảng để chọn ra phương pháp giảng dạy cho phù hợp với trình độ, đối tượng học sinh. Chỉ hướng dẫn học sinh tìm lời giải và phép tính của một bài toán cụ thể mà không dạy cho học sinh cách giải (các bước giải) của dạng toán đó như thế nào? Từ những khó khăn đó dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao, chưa có hứng thú lòng ham muốn phân tích, khám phá những bài toán có lời văn. Nếu không nhanh chóng khắc phục cho các em những khó khăn này thì các em sau này sẽ càng khó khăn hơn và như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tư duy, trí tuệ của học sinh. 2. Về phía học sinh: - Vào lớp 1, lần đầu tiên trẻ được tiếp xúc với toán học với tư cách là một môn học, rèn luyện với các thao tác tư duy như là so sánh, quan sát, phân tích,... Thật là một thử thách lớn đối với học sinh trong khi các em đọc chưa thông, viết chưa thạo. Làm sao để các em tập trung, chú ý vào để học. Chủ yếu do 1 số nguyên nhân sau: + Tư duy của học sinh còn mang tính trực quan là chủ yếu. + Khi về nhà phần lớn học sinh lại chưa được bố mẹ quan tâm đến bài vở của con do đi làm vất vả hoặc muốn quan tâm nhưng không biết dạy con sao cho đúng phương pháp dẫn đến giáo viên rất vất vả khi dạy đến dạng bài toán có lời văn. Mặt khác, do yếu tố chủ quan, khách quan, quá trình dạy học chưa đạt yêu cầu để hình thành và phát triển kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh. Đây là việc làm khó khăn đối với giáo viên. Các em đọc chưa thông, viết chưa thạo nên việc giải toán còn nhiều tồn tại, còn thụ động máy móc, đặc biệt chưa biết ghi câu lời giải cho phép tính hoặc có nhưng cũng còn nhiều lúng túng hoặc ghi sai. Do đó học sinh lớp 1 thường gặp phải khó khăn khi giải các bài toán có lời văn. Ngoài ra còn một số lý do khác từ phía học sinh: Do trình độ tư duy và khả năng tiếp thu bài, trí nhớ của các em chưa bền vững, mới dừng lại ở mức độ phát triển nên khi gặp bài toán có lời văn dù đơn giản hay phức tạp thì các em đều thể hiện sự ngại khó. 3. Kết quả của thực trạng. Năm học 2013 – 2014 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 1A. Trước khi nghiên cứu đề tài này, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh, giao bài kiểm tra với thời gian 20 phút với hai bài toán sau: Bài 1: Lúc đầu tổ em có 5 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn? Bài 2: Nhà em có 10 con gà, đã bán đi 3 con gà. Hỏi nhà em còn lại mấy con gà? Hình thức kiểm tra: Học sinh đọc kỹ đề bài làm bài vào giấy. *Kết quả khảo sát học sinh lớp 1A năm học 2013 - 2014: Tổng số HS HS viết đúng câu lời giải HS viết đúng phép tính HS viết đúng đáp số HS giải đúng cả 3 bước 25 SL TL SL TL SL TL SL TL 18 72% 20 80% 18 72% 18 72% Từ thực tế chấm bài khảo sát trên tôi thấy có nhiều học sinh chưa biết làm bài toán có lời văn hoàn chỉnh. Có em viết đúng lời giải thì làm sai phép tính, có em lại viết sai lời giải mà phép tính và đáp số lại đúng. Số học sinh làm hoàn chỉnh một bài toán có lời văn chỉ đạt 72%. Tôi nhận thấy nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của học sinh trong quá trình giải các bài toán có lời văn là: + Học sinh đọc được đề bài nhưng chưa hiểu đề bài, chưa biết thế nào là tìm hiểu bài toán có lời văn. + Không biết tìm hiểu bài toán như: bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? + Không hiểu các thuật ngữ toán học như: thêm, bớt, cho đi, mua về, bay đi, chạy đến,. . . và câu hỏi: Có tất cả bao nhiêu? Còn lại bao nhiêu? . . . . + Không biết tóm tắt bài toán, lúng túng khi nêu câu lời giải, có khi học sinh nêu lại câu hỏi của bài toán. Không hiểu thuật ngữ toán học nên không biết nên cộng hay trừ dẫn đến nói sai, viết sai phép tính, sai đơn vị, viết sai đáp số. + Một số em làm đúng nhưng khi giáo viên hỏi lại không biết trả lời. Chứng tỏ các em chưa hiểu cách giải bài toán có lời văn. Để khắc phục những hạn chế cho học sinh phát huy khả năng học Toán nói chung và cách giải những bài toán có lời văn nói riêng tôi đã tiến hành các biện pháp sau: III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. Bản thân tôi tự nhận thấy với những dạng bài toán có lời văn ở lớp 1, giáo viên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn phương pháp giải sao cho phù hợp với đặc điểm tư duy của các em. Đặc biệt, giải toán dựa vào hình ảnh minh họa trực quan chiếm ưu thế trong việc dạy giải toán có lời văn ở lớp 1. Để đảm bảo tính vừa sức, khi hướng dẫn học sinh giáo viên cần yêu cầu học sinh thông qua các bước sau: - Biểu thị các yếu tố của bài toán qua tóm tắt. - Nhận biết những yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm (dựa vào tóm tắt), học sinh tự tìm tòi tri thức. - Phát hiện mối quan hệ giữa yếu tố phải tìm và yếu tố đã cho. - Học sinh vận dụng các kiến thức đã học để giải bài toán hoặc tìm ra cách giải mới (học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức). Vì vậy để “Gióp häc sinh líp mét häc tèt d¹ng gi¶i to¸n cã lêi v¨n” , giáo viên cần trang bị cho các em vốn kiến thức cơ bản về các nội dung có liên quan. 1. Nhận biết cấu tạo bài toán có lời văn. Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp cận với một đề bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện. Tư duy học sinh từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ, thành chữ viết. Giải toán có lời văn ban đầu được thực hiện bằng phép tính cộng là phù hợp với tư duy của học sinh. Cấu trúc một đề toán gồm 2 phần: phần cho biết và phần hỏi, phần cho biết gồm có 2 yếu tố. Cụ thể: (tiết 81). Giải toán có lời văn (trang 115 - Sách giáo khoa Toán 1). Gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau. Ở tiết học này học sinh được học với đề toán chưa hoàn thiện. Cụ thể là: Bài toán 1: Có ...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? * HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi. - Có mấy bạn đang đứng? (1 bạn) - Thêm mấy bạn đang đi tới? (3 bạn) - Vậy chỗ chấm thứ nhất điền số mấy? (số 1) - Chỗ chấm thứ thứ hai điền số mấy? (số 3) Bài toán 2: Có con thỏ, có thêm con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ ? * Bài toán còn thiếu câu hỏi (cái cần tìm) Như vậy giáo viên tiếp tục giúp học sinh sử dụng kĩ năng quan sát tranh, để hoàn thiện đề bài toán. Từ đó giúp học sinh nắm chắc đề bài toán có lời văn ở lớp 1 gồm 2 phần: + Phần cho biết và phần hỏi: Phần cho biết gồm 2 yếu tố: Có . . .;cho thêm. Phần hỏi: Có tất cả: (hoặc Phần cho biết gồm 2 yếu tố : Có. . . ,bay đi; phần hỏi : còn lại) Bài toán 3: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán. Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. Hỏi .? * Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi ( cái đã cho và cái cần tìm) Bài toán 4: Có con chim đậu trên cành, có thêm.con chim bay đến. Hỏi ............? - Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu là cái cần tìm. Bước 1: GV đặt câu hỏi - HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu trên bảng lớp. Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của bài toán. Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác định bài 1,bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiểu được đây là dạng toán có lời văn phải có đủ dữ kiện. Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập 3, 4. Bài toán 3: Có 1 con gà mẹ và 7 con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà? Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học sinh hoàn thành bài toán 4 (trang 116): Bài toán 4: Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim? 2. Các bước thực hiện giải bài toán có lời văn. Để hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn, bản thân giáo viên phải hiểu bản chất của bài toán. Sử dụng nghệ thuật sư phạm cùng với kiến thức của mình để hướng dẫn học sinh giải các dạng toán có lời văn bằng phương pháp tối ưu nhất, nhanh và chính xác nhất. Không những quan tâm đến khối lượng kiến thức mà còn phải quan tâm dạy cho học sinh biết cách học, cách tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy đối với mỗi bài toán có lời văn, tôi không chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn học sinh tìm lời giải và phép tính cụ thể của một bài toán mà đã hướng dẫn học sinh tìm cách giải của dạng toán đó, sau đó khái quát hoá cách giải các bài toán có lời văn theo các bước sau: Bước 1: Đọc, tìm hiểu đề: Đây là bước quan trọng, học sinh không thể bỏ qua được, phải rèn cho học sinh tránh thói quen là vừa đọc đề xong hoặc chưa hiểu kĩ để bài đã vội vàng thực hiện bài giải. Như vậy sẽ không thể tránh khỏi sự bế tắc trong khi giải bài tập, dẫn đến tình trạng không biết ghi lời giải như thế nào cho phù hợp. Vì vậy bước đầu tiên tôi đã
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giup_hoc_sinh_lop_mot_hoc_tot_dang_giai_toan_co_loi_van.doc