SKKN Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy – học bài Tôi yêu em trong chương trình Ngữ văn 11 (Cơ bản)
Trong vài năm gần đây, khái niệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông dần trở nên quen thuộc đối với những người làm công tác giáo dục, nhất là người giáo viên trực tiếp đứng lớp. Giáo dục kĩ năng sống đã trở thành một trong những mục tiêu, nhiệm vụ cần thiết, thiết thực nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Bởi chúng ta đều nhận thức được rằng việc giáo dục học sinh trong nhà trường không chỉ dừng ở việc cung cấp những tri thức khoa học về các lĩnh vực đời sống mà còn phải hình thành những năng lực, phẩm chất đạo đức cần thiết cho các em để xây dựng con người hoàn thiện cả về trí tuệ lẫn tâm hồn. Ngày nay, trong xu thế phát triển và hội nhập của đất nước, trước những yêu cầu của đời sống xã hội mới, nhiệm vụ của giáo dục nhà trường còn quan trọng và to lớn hơn nữa khi chúng ta nhận thức được và đang đề cao hơn nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi một thực tế mà chúng ta đang nhìn thấy đó là một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ ngày nay đang rất thiếu và yếu những kĩ năng sống cơ bản. Những hành vi lệch chuẩn trái ngược với thuần phong mĩ tục; những cách ứng xử thiếu văn minh và vô cảm; những trào lưu sống ảo; những tệ nạn xã hội.vv.trong giới trẻ đều có một phần nguyên nhân rất lớn từ việc các em thiếu các kĩ năng sống cần thiết. Việc thiếu đi những kĩ năng ấy khiến các em không thể tự bảo vệ mình trước những tác động tiêu cực của đời sống, dẫn đến nhiều hệ lụy đáng buồn. Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề giáo dục kĩ năng sống lại được đặt ra thời sự và cần thiết như bây giờ trong nhà trường của chúng ta. Ngoài những tri thức nền tảng về các bộ môn khoa học, xã hội đang đòi hỏi nhiều hơn nữa ở mỗi cá nhân những kĩ năng sống cơ bản, tích cực để có thể tồn tại, chung sống trong một “thế giới phẳng” như hiện nay. Sự đòi hỏi ấy là một xu thế tất yếu và trách nhiệm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng những con người của thời đại mới ấy có một phần rất quan trọng thuộc về nhà trường.
MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài Trong vài năm gần đây, khái niệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông dần trở nên quen thuộc đối với những người làm công tác giáo dục, nhất là người giáo viên trực tiếp đứng lớp. Giáo dục kĩ năng sống đã trở thành một trong những mục tiêu, nhiệm vụ cần thiết, thiết thực nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Bởi chúng ta đều nhận thức được rằng việc giáo dục học sinh trong nhà trường không chỉ dừng ở việc cung cấp những tri thức khoa học về các lĩnh vực đời sống mà còn phải hình thành những năng lực, phẩm chất đạo đức cần thiết cho các em để xây dựng con người hoàn thiện cả về trí tuệ lẫn tâm hồn. Ngày nay, trong xu thế phát triển và hội nhập của đất nước, trước những yêu cầu của đời sống xã hội mới, nhiệm vụ của giáo dục nhà trường còn quan trọng và to lớn hơn nữa khi chúng ta nhận thức được và đang đề cao hơn nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi một thực tế mà chúng ta đang nhìn thấy đó là một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ ngày nay đang rất thiếu và yếu những kĩ năng sống cơ bản. Những hành vi lệch chuẩn trái ngược với thuần phong mĩ tục; những cách ứng xử thiếu văn minh và vô cảm; những trào lưu sống ảo; những tệ nạn xã hội..vv..trong giới trẻ đều có một phần nguyên nhân rất lớn từ việc các em thiếu các kĩ năng sống cần thiết. Việc thiếu đi những kĩ năng ấy khiến các em không thể tự bảo vệ mình trước những tác động tiêu cực của đời sống, dẫn đến nhiều hệ lụy đáng buồn. Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề giáo dục kĩ năng sống lại được đặt ra thời sự và cần thiết như bây giờ trong nhà trường của chúng ta. Ngoài những tri thức nền tảng về các bộ môn khoa học, xã hội đang đòi hỏi nhiều hơn nữa ở mỗi cá nhân những kĩ năng sống cơ bản, tích cực để có thể tồn tại, chung sống trong một “thế giới phẳng” như hiện nay. Sự đòi hỏi ấy là một xu thế tất yếu và trách nhiệm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng những con người của thời đại mới ấy có một phần rất quan trọng thuộc về nhà trường. Trong các môn học ở nhà trường phổ thông, Ngữ văn là một môn học có nhiều ưu thế để lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bởi đây là môn học có tính chất xã hội và nhân văn cao. Bản thân mục tiêu và nội dung của môn Ngữ văn đã chứa đựng những yếu tố của giáo dục kĩ năng sống như : Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tiếng Việt; hình thành và phát triển các năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn học, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự học; bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn học, yêu gia đình, đất nước, tinh thần nhân văn, nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị quốc tế..vv. Do vậy, việc khai thác, vận dụng và triển khai nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua môn học này là hoàn toàn phù hợp và khả thi . Đối với chương trình Ngữ văn THPT, có thể nói hầu hết các bài học đều có khả năng lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau chúng ta đã chưa khai thác và chú trọng đúng mức đến khả năng dồi dào, to lớn ấy. Trong khuôn khổ đề tài này, tôi chọn địa chỉ là tác phẩm thơ “ Tôi yêu em” của nhà thơ A.X. Pu-skin trong chương trình Ngữ 11- tập 2. Đây là một tác phẩm viết về đề tài tình yêu đôi lứa- một đề tài rất hấp dẫn đối với đối tượng học sinh THPT và tác phẩm cũng rất gần gũi, phù hợp để giáo Văn dục cho các em một số kĩ năng sống nhằm giúp các em giải quyết được những tình huống nảy sinh trong thực tiễn thường gặp ở lứa tuổi các em. Do vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy – học bài Tôi yêu em trong chương trình Ngữ văn 11 (Cơ bản)”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Chọn đề tài này tôi nhằm đạt được những mục đích sau đây: Nâng cao hiệu quả dạy – học văn bản Tôi yêu em. Giáo dục cho học sinh những kĩ năng sống cơ bản gồm: Kĩ năng giao tiếp, tư duy sáng tạo, xác định giá trị, tìm kiếm sự giúp đỡ, tự nhận thức, kiểm soát cảm xúc, giải quyết vấn đề. Thông qua đó các em có được những ứng xử phù hợp trong tình bạn, tình yêu ở lứa tuổi học trò. Góp phần giáo dục, bồi dưỡng những tình cảm nhân văn, tư tưởng, đạo đức của học sinh. . Đối tượng nghiên cứu - Văn bản Tôi yêu em trong chương trình ngữ văn 11- cơ bản. - Học sinh lớp 11- là lứa tuổi đang có những bước phát triển, hoàn thiện về tâm lí, thể chất. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp quan sát, thực nghiệm, phân tích số liệu, thống kê. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Cơ sở lí luận Những vấn đề cơ bản về Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn 2.1.1.1. Khái niệm về kĩ năng sống Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống (KNS): Theo tổ chức Y tế Thế giới ( WHO) : Kĩ năng sống là “ khả năng thích nghi và hành vi tích cực giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả với những đòi hỏi và thách thức của cuộc sống hàng ngày”. Theo người Palestine “Kĩ năng sống là năng lực mà chúng ta cần để giải quyết những vấn đề tồn tại của chúng ta, vượt qua áp lực, tìm kiếm sự thay đổi tích cực và khuyến khích những điều tích cực hiện có nhằm mục đích cải thiện tình huống của chúng ta và đạt được sự an ninh, hoà bình, hài hoà với xã hội và với môi trường. Theo từ điển Wikipedia “Kĩ năng sống là tập hợp các kĩ năng của con người có được qua việc học hoặc trải nghiệm trực tiếp trong cuộc sống dùng để giải quyết những vấn đề mà con người thường phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày”. Theo tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc ( UNESCO) : KNS gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết gồm các kĩ năng tư duy như: Tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả...Học để làm người gồm các kĩ năng như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin... Học để sống với người khác gồm các kĩ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông, Học để làm gồm các kĩ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: Kĩ năng đặt mục tiêu, đảm bảo trách nhiệm.. Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là kĩ năng tự quản lý bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. 2.1.1.2. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn * Thể hiện qua mục tiêu giáo dục : Mục tiêu giáo dục của môn Ngữ văn đã chứa đựng những yếu tố của giáo dục kĩ năng sống: - Trang bị kiến thức phổ thông - Hình thành năng lực ngữ văn - Bồi dưỡng tình cảm thái độ Với đặc trưng của một môn KHXH và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt , năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có những hiểu biết về xã hội , văn hóa, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người. Với tính chất là một môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tập, giao tiếp và nhận thức về xã hội và con người. Với tính chất giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân cách. * Thể hiện qua nội dung môn học: Là một môn học công cụ nên môn Ngữ văn có thể kết hợp nhiều nội dung giáo dục trong quá trình dạy học. Ngoài các nội dung giáo dục mang tính chất ổn định của môn học là các nội dung giáo dục mang tính thời sự - xã hội: Giáo dục tình cảm nhân văn, trách nhiệm của thanh niên, học sinh trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, giáo dục về truyền thống dân tộc về tình bạn, tình yêu và gia đình; về vấn đề lập nghiệp; về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục sức khoẻ, giáo dục giới tính...nhằm đáp ứng yêu cầu hình thành ở học sinh quan hệ ứng xử đúng đắn với những vấn đề của cuộc sống đất nước, thời đại; giúp học sinh có đủ bản lĩnh hội nhập trong xu thế toàn cầu hoá. * Việc giáo dục KNS trong môn ngữ văn được tiếp cận qua hai phương diện: - Nội dung các bài học: Nhiều bài học giúp học sinh nhận thức được giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp. - Phương pháp triển khai các nội dung bài học: 6 phương pháp dạy học tích cực và 19 kỹ thuật dạy kĩ năng sống (tr 27 – 35 tài liệu “Giáo dục KNS trong môn Ngữ văn). Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trước đây khi dạy bài Tôi yêu em, tôi thường tiến hành như tất cả các bài học khác một cách truyền thống, nghĩa là dẫn dắt học sinh nắm được những nét cơ bản về tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, sau đó hướng dẫn học sinh phân tích nội dung, nghệ thuật của bài. Khi đó tôi chưa chú ý đến việc giáo dục kĩ năng sống cho các em mà chỉ có ý thức liên hệ thực tế một chút. Ở phần liên hệ thức tế, tôi thường nêu bài học cho học sinh về việc phải “học tập tinh thần cao thượng của tác giả, không nên cay cú, hoặc tìm cách trả thù nếu lỡ có thất bại trong tình yêu”. Quả thực sự liên hệ đó đã được tiến hành nhưng rất lý thuyết và hình thức. Phản ứng lại bài học đó, học sinh thường cười ồ, và một thực tế mà tôi nhận thấy là các em không thực sự bị thuyết phục và tin vào bài học lý thuyết ấy, các em cho rằng đó chỉ là trong sách vở mới có chuyện như vậy, rất ít em cảm thấy được một bài học thiết thực đối với riêng mình. Và do thế, câu chuyện tình yêu và nhân cách đẹp của Pu-skin mãi chỉ là câu chuyện trên sách vở. Trong khi đó, thi thoảng tôi vẫn được biết đến những câu chuyện “tình yêu học trò” của chính học trò mình và cũng được chứng kiến không ít những hệ quả tiêu cực từ những tình yêu ấy mà một nguyên nhân quan trọng là các em rất thiếu kĩ năng xử lí đúng đắn và phù hợp trong những mối quan hệ đó. Trở lại năm học này, tôi được giao nhiệm vụ dạy một số lớp 11 và bài học Tôi yêu em trở lại. Song với sự rút kinh nghiệm nghiêm túc và tinh thần cầu thị, đổi mới, trong năm học này tôi đã mạnh dạn áp dụng một số cải tiến, nhất là chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua một bài học về đề tài tình yêu- một đề tài rất gần gũi, có sức hấp dẫn đối với các em. Các giải pháp đã sử dụng 2.3.1. Xác định những kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh thông qua bài học Việc xác định những KNS cần giáo dục cho học sinh dựa trên cơ sở nắm vững các nguyên tắc và mục tiêu giáo dục kĩ năng sống trong môn học Ngữ văn và quá trình phân tích nội dung bài học. 2.3.1.1. Mục tiêu và nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nói chung, môn Ngữ văn nói riêng Đối với người giáo viên, trước khi tiến hành hoạt động giáo dục KNS, cần phải nắm vững mục tiêu, nguyên tắc của GDKNS như là định hướng và cơ sở khoa học không thể thiếu. Bởi việc nắm vững những mục tiêu và nguyên tắc đó sẽ giúp người giáo viên hiểu chính xác những gì mình đang làm, từ đó xây dựng được nội dung, kế hoạch giáo dục phù hợp, hiệu quả. Bên cạnh đó, người giáo viên trong vai trò là người thiết kế, tổ chức các hoạt động giáo dục sẽ xác định được chính xác những kĩ năng sống nào cần hình thành, rèn luyện cho học sinh phù hợp với từng bài học, từng đối tượng từ đó mà lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học tương ứng. Sự nắm vững nguyên tắc và mục tiêu GDKNS, cũng giúp cho người giáo viên không đi chệch khỏi quỹ đạo khi lên lớp, không biến giờ học thành giờ tuyên truyền đạo đức, hay lý thuyết suông. Theo đó, các mục tiêu và nguyên tắc giáo dục KNS bao gồm: Về mục tiêu: GDKNS nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên sơ sở đó hình thành cho học sinh những thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống hàng ngày. - Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển hài hòa cả về thể chất, trí tuệ, tâm hồn. Về nguyên tắc: - GDKNS trên cơ sở hoạt động tương tác. Nghĩa là học sinh không thể được hình thành thói quen chỉ qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu mà phải thông qua hoạt động tương tác với người khác. Trong quá trình hoạt động tương tác đó, học sinh có cơ hội được thể hiện ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, từ đó có thể nhìn nhận lại kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn khác. - Hoạt động trải nghiệm: KNS chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế, tức là các em tự làm việc đó chứ không chỉ nói về việc đó. - Nguyên tắc tiến trình: tức là GDKNS không phải chuyện ngày một ngày hai mà phải tuân thủ theo trình tự :Nhận thức- hình thành thái độ- thay đổi hành vi. - Thay đổi hành vi: Đây là mục đích cao nhất của GDKNS cho học sinh. GDKNS thúc đẩy người học thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ, hành động của mình theo hướng tích cực hơn. Đối với mục tiêu GDKNS trong môn Ngữ văn: Về kiến thức: Giúp học sinh nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như những giá trị tốt đẹp của nhân loại; góp phần bổ sung, mở rộng kiến thức đã học về quyền, trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội, về định hướng nghề nghiệp. - Nhận thức được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đen sự phát triển bản thân và người khác. Về kĩ năng: Có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm, biết ứng xử linh hoạt, hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp. - Có suy nghĩ và hành động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng đắn trong cuộc sống. - Có kĩ năng quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn và lành mạnh của cuộc sống. Về thái độ: Hứng thú và có nhu cầu được thể hiện các KNS mà bản thân đã rèn luyện được. - Hình thành và thay đổi hành vi để sống lành mạnh, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội. - Có ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội, có ý thức định hướng nghề nghiệp. 2.3.1.2. Phân tích, đánh giá khả năng tích hợp giáo dục KNS trong bài học. Phân tích, đánh giá khả năng tích hợp giáo dục KNS của bài học “Tôi yêu em” dựa trên các phương diện cụ thể sau đây: - Mục tiêu bài học: Học bài học này nhằm giúp học sinh : Về kiến thức: Cảm nhận được tấm lòng yêu chân thành và tâm hồn nhân hậu, cao thượng của tác giả được thể hiện qua một hình thức ngôn từ giản dị, trong sáng. Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng đọc-hiểu tác phẩm trữ tình. Về thái độ: Giáo dục thái độ đồng cảm với tâm trạng nhà thơ, đồng thời biết trân trọng một nhân cách đẹp, từ đó thêm trân trọng tình yêu- thứ tình cảm trong sáng, cao đẹp của con người. Những mục tiêu trên đây phù hợp với mục tiêu giáo dục một số KNS như: Tự nhận thức, giao tiếp, tư duy sáng tạo. - Nội dung bài học: Tôi yêu em là một tác phẩm trữ tình thuộc văn học nước ngoài. Dung lượng bài thơ tuy ngắn nhưng lại hàm chứa một nội dung tư tưởng sâu sắc, giàu giá trị nhân văn. Bài thơ diễn tả một cách giản dị, độc đáo mà chân thành tình yêu tha thiết, say đắm và nhân cách cao thượng, đáng phục của nhân vật trữ tình Tôi - cũng là chính tác giả Pu-skin. Bản thân bài học đã mang đến những giá trị nhân văn đẹp mà mỗi người có thể nhận thức, học tập, làm giàu thêm cho tâm hồn mình. Do đó, bài học rất phù hợp với mục tiêu giáo dục một số kĩ năng sống như: Tự nhận thức, xác định giá trị, thể hiện sự cảm thông..vv.. - Điều kiện tiến hành hoạt động dạy-học ( phương pháp, phương tiện, thiết bị dạy học, đối tượng học sinh): Về phương pháp: bài học Tôi yêu em có thể sử dụng những phương pháp truyền thống như thuyết trình, phát vấn, cũng có thể sử dụng các phương pháp mới như thảo luận nhóm và một số kĩ thuật tích cực khác. Trong quá trình tiến hành những phương pháp đó, học sinh có thể được rèn luyện những kĩ năng sống phù hợp như : giao tiếp, tự nhận thức, tư duy sáng tạo.... Về phương tiện, thiết bị dạy học: sử dụng máy chiếu Projector hỗ trợ phần minh họa hình ảnh, các kết luận quan trọng trong bài học và các bài tập. Về đối tượng học sinh: Đối với các em học sinh ở bậc trung học phổ thông, tác phẩm Tôi yêu em càng trở nên gần gũi, hấp dẫn bởi đặc điểm tâm lí lứa tuổi này rất nhạy cảm với những đề tài như tình yêu đôi lứa. Các em đã là những thanh niên ở độ tuổi 17, 18, đã có sự trưởng thành nhất định về cả thể chất và tâm lí, nhiều em đã xuất hiện những rung động đầu đời đối với bạn khác giới; nhiều em rất tò mò tìm hiểu về các vấn đề tình yêu, giới tínhĐó là những nhu cầu có thực đã và đang tồn tại ở lứa tuổi của các em. Chính vì vậy, tôi nhận thấy đây là một địa chỉ rất phù hợp để có thể lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Thông qua bài học, học sinh được rèn luyện kĩ năng giao tiếp, tư duy sáng tạo; các em được học kĩ năng tự nhận thức, tự xác định giá trị, biết cách tìm kiếm sự giúp đỡ, hay giải quyết mâu thuẫn trong các mối quan hệ bạn bè khác giới. Từ việc nắm vững những mục tiêu và nguyên tắc GDKNS trên đây cùng với việc phân tích khả năng giáo dục KNS của bài học này, tôi xác định có thể giáo dục những kĩ năng sống cơ bản sau đây cho các em: - Kĩ năng giao tiếp: Là khả năng các em có thể trình bày ý tưởng, cảm nhận của mình cũng như biết lắng nghe, thấu hiểu và tôn trọng ý kiến của người khác. Trong bài học này, kĩ năng lắng nghe thể hiện ở việc các em có thể cảm nhận và trình bày được chính xác tâm trạng, vẻ đẹp của tình yêu chân thành, say đắm và nhân cách cao thượng của tác giả Pu-skin. Nghĩa là các em đã có một cuộc “giao tiếp” với tác giả thông qua tác phẩm. Bên cạnh cuộc giao tiếp này, các em còn được giao tiếp với giáo viên, với các bạn trong lớp trong quá trình trao đổi, thảo luận. - Kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị: Tự nhận thức là tự nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân mình. Đây là một KNS cơ bản, nền tảng giúp con người có thể đánh giá đúng về mình, từ đó có những ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ. Còn kĩ năng xác định giá trị tức là con người biết lựa chọn những gì mà họ cho là quan trọng, cần thiết và ý nghĩa đối với bản thân mình. Lựa chọn được những giá trị phù hợp, chuẩn mực sẽ giúp con người có định hướng hành động đúng, dám khẳng định bản lĩnh của mình đồng thời biết tôn trọng và chấp nhận những giá trị của người khác. Kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị có quan hệ thống nhất với nhau. Tự nhận thức đúng về mình là cơ sở để con người có kĩ năng xác định giá trị đúng đắn. Trong bài học về văn bản Tôi yêu em, tôi hướng tới mục tiêu rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự nhận thức một số nội dung như: Tự nhận thức về giá trị của tình yêu trong đời sống tinh thần của con người; Tự nhận thức về cách ứng xử phù hợp, có văn hóa trong quan hệ với bạn khác giới. - Kĩ năng tư duy sáng tạo: là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới, khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các ý tưởng, khái niệm, sự việc...Trong bài học này học sinh được rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo trong quá trình phân tích, bình luận những đặc sắc trong cách thể hiện quan niệm tình yêu của tác giả. - Kĩ năng kiểm soát cảm xúc: là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và người khác như thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp. Thông qua bài học “Tôi yêu em”, học sinh được học cách ứng xử của nhân vật trữ tình trong bài thơ, từ đó biết kiểm soát cảm xúc cá nhân trong những tình huống tương tự. Các em sẽ hiểu rằng, cần bày tỏ cảm xúc một cách phù hợp và không để những cảm xúc tiêu cực chi phối bản thân cũng như ảnh hưởng đến người khác. - Kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ: trong cuộc sống, có nhiều vấn đề mà bản thân chúng ta không thể giải quyết được và phải cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ từ người khác. Do vậy, biết tìm kiếm sự giúp đỡ một cách hiệu quả là một kĩ năng sống cần thiết đối với mỗi người. Đối với học sinh lứa tuổi THPT các em có rất nhiều vấn đề trong học tập, sinh hoạtnhất là các mối quan hệ bạn bè cần đến sự trợ giúp, định hướng của người lớ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giao_duc_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_qua_day_hoc_bai_toi.doc
- Bia SKKN.doc
- MỤC LỤC.doc