SKKN Dạy học truyện ngắn theo hướng tích hợp với hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 12
Trong những năm gần đây ngành GD&ĐT đã và đang tiến hành đổi mới giáo dục trên toàn diện: Từ việc đổi mới mục tiêu, phương pháp, phương tiện, cách đánh giá chất lượng dạy và học cho đến cách xây dựng, cách quản lý cũng như vai trò và vị trí của người dạy và người học, nhằm tạo ra một môi trường giáo dục tiên tiến giúp người học phát triển một cách toàn diện, đáp ứng đúng mục tiêu mà UNESCO đã đề ra: “Học để biết, Học để làm, Học để chung sống với mọi người, Học để tự khẳng định mình”.
Nằm trong hệ thống những môn văn hoá, nhưng môn ngữ văn lại có một vai trò và vị trí khá đặc biệt: Vừa là bộ môn khoa học nhằm cung cấp cho học học sinh những kiến thức, những hiểu biết nhất định, vừa là một môn nghệ thuật có khả năng tác động trực tiếp đến quan điểm, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của học sinh thông qua những hình tượng nghệ thuật. Môn ngữ văn đang trên đường khẳng định sự đổi mới của mình, cụ thể là trên cơ sở kết hợp hai đặc tính khoa học và nghệ thuật theo hướng tích hợp từ các phân môn: đọc hiểu, tiếng Việt, làm văn và lý luận văn học đồng thời ứng dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác như: Tâm lý học, Giáo dục học, Lý luận dạy học hiện đại, khoa học công nghệ và đặc biệt là vận dụng triệt để quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm nhằm phát huy tối đa tính chủ động, tích cực của người học.
Chúng ta đang hướng tới xây dựng và phát triển một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và luôn có khả năng hội nhập với thế giới. Nhưng đất nước càng phát triển, xã hội càng hiện đại thì cuộc sống càng nảy sinh những thách thức, những nguy cơ rủi ro, muốn thành công và hạnh phúc con người không chỉ phải trang bị kiến thức mà quan trọng hơn là cần được trang bị kỹ năng sống. Vì vậy việc dạy học gắn liền với hoạt động giáo dục kỹ năng sống (HĐGDKNS) cho học sinh là một việc làm tất yếu. Hoạt động này có thể thông qua các môn học, các hoạt động ngoại khoá, các buổi sinh hoạt tập thể tuỳ thuộc vào từng đối tượng học sinh cụ thể.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT LƯƠNG ĐẮC BẰNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 12. Người thực hiện: Hoàng Thị Lân Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc môn : Ngữ Văn THANH HÓA NĂM 2017 MỤC LỤC TT Nội dung Trang 1. Phần mở đầu 3 1.1 Lí do chọn đề tài 4 1.2 Mục đích nghiên cứu 4 1.3 Đối tượng nghiên cứu 4 1.4 Phương pháp nghiên cứu 4 2. Phần nội dung 4 2.1 Cơ sở lí luận 5 2.1.1 Khái quát chung về KNS và GDKNS 5 2.1.2 Một số nguyên tắc dạy học truyện ngắn theo hướng tích hợp với HĐGDKNS 5 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến 6 2.3 Một số giải pháp giảng dạy truyện ngắn theo hướng tích hợp với HĐGDKNS 6 2.3.1 Nắm vững đặc trưng bộ môn 6 2.3.2 Định hướng khai thác, tìm hiểu theo các bước 7 2.3.3 Thực nghiệm dạy học một truyện theo hướng tích hợp với HĐGDKNS: ruyện Vợ nhặt ( Ngữ văn 12, cơ bản) 10 2.4 Hiệu quả của sáng kiến 16 3 Kết luận, kiến nghị 17 Tài liệu tham khảo 18 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Trong những năm gần đây ngành GD&ĐT đã và đang tiến hành đổi mới giáo dục trên toàn diện: Từ việc đổi mới mục tiêu, phương pháp, phương tiện, cách đánh giá chất lượng dạy và học cho đến cách xây dựng, cách quản lý cũng như vai trò và vị trí của người dạy và người học, nhằm tạo ra một môi trường giáo dục tiên tiến giúp người học phát triển một cách toàn diện, đáp ứng đúng mục tiêu mà UNESCO đã đề ra: “Học để biết, Học để làm, Học để chung sống với mọi người, Học để tự khẳng định mình”. Nằm trong hệ thống những môn văn hoá, nhưng môn ngữ văn lại có một vai trò và vị trí khá đặc biệt: Vừa là bộ môn khoa học nhằm cung cấp cho học học sinh những kiến thức, những hiểu biết nhất định, vừa là một môn nghệ thuật có khả năng tác động trực tiếp đến quan điểm, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của học sinh thông qua những hình tượng nghệ thuật. Môn ngữ văn đang trên đường khẳng định sự đổi mới của mình, cụ thể là trên cơ sở kết hợp hai đặc tính khoa học và nghệ thuật theo hướng tích hợp từ các phân môn: đọc hiểu, tiếng Việt, làm văn và lý luận văn học đồng thời ứng dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác như: Tâm lý học, Giáo dục học, Lý luận dạy học hiện đại, khoa học công nghệ và đặc biệt là vận dụng triệt để quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm nhằm phát huy tối đa tính chủ động, tích cực của người học. Chúng ta đang hướng tới xây dựng và phát triển một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và luôn có khả năng hội nhập với thế giới. Nhưng đất nước càng phát triển, xã hội càng hiện đại thì cuộc sống càng nảy sinh những thách thức, những nguy cơ rủi ro, muốn thành công và hạnh phúc con người không chỉ phải trang bị kiến thức mà quan trọng hơn là cần được trang bị kỹ năng sống. Vì vậy việc dạy học gắn liền với hoạt động giáo dục kỹ năng sống (HĐGDKNS) cho học sinh là một việc làm tất yếu. Hoạt động này có thể thông qua các môn học, các hoạt động ngoại khoá, các buổi sinh hoạt tập thể tuỳ thuộc vào từng đối tượng học sinh cụ thể. Mặc dù quá trình đổi mới giáo dục cấp THPT đã đi được một quãng đường nhất định, nhưng vấn đề GDKNS cho học sinh vẫn chưa được quan tâm cho tương xứng với vai trò và vị trí quan trọng của nó. So với học sinh thế giới, nhất là học sinh các nước phát triển như: Xin-Ga-Po, Mỹ, AnhHọc sinh Việt Nam mang hành trang đến cuộc sống vẫn nặng lý thuyết hơn là thực hành. Vả lại do điều kiện cơ sở vật chất chưa đồng bộ, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, nên chúng ta cũng chưa có nhiều điều kiện để học sinh thực hành và trải nghiệm những điều đã học. Trong khi đó ngoài xã hội đầy những biến động khôn lường, nhiều học sinh đứng trước những tình huống bất ngờ không biết xử lý như thế nào cho đúng, hoặc là xử lý theo hướng tiêu cực, dẫn đến những hậu quả xấu. Xuất phát từ thực tế nói trên tôi nghĩ nền giáo dục Việt Nam cần thiết phải chú trọng hơn nữa hoạt HĐGDKNS cho học sinh để các em có khả năng sống trong mọi điều kiện hoàn cảnh. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Khi quyết định chọn đề tài này để nghiên cứu tôi muốn đem đến một cái nhìn cụ thể, thiết thực, đúng đắn và đầy đủ hơn về hoạt động dạy học theo quan điểm tích hợp mà chúng ta đang thực hiện trong môn Ngữ văn ở trường thpt hiện nay. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: + Thiết lập phương pháp dạy học cho một truyện ngắn theo hướng tích hợp với HĐGDKNS. + Từ phương pháp chung, người viết tập trung vào định hướng cách thức dạy học cụ thể đối với truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) theo hướng tích hợp với HĐGDKNS. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng những phương pháp cụ thể sau: + Phương pháp xây dựng cơ sở lí thuyết:Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài, tôi thu thập và xử lí thông tin, rôì xây dựng mô hình lí thuyết về KNS, các nguyên tắc tích hợp trong giờ đọc hiểu văn bản truyện ngắn + Phương pháp điêù tra, khảo sát thực tế + Phương pháp thống kê, xử lí số liệu 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận: 2.1.1. Khái quát chung về KNS và GDKNS: * Khái niệm: - KNS là năng lực, khả năng tâm lý – xã hội của con người có thể ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình huống và giao tiếp có hiệu quả. - Những KNS cần giáo dục cho học sinh thpt trong xã hội hiện đại được chia làm 2 nhóm: Một là: Những KNS cốt lõi bao gồm: + Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình + Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác + Nhóm kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề Hai là: Những kỹ năng sống để ứng phó với những vấn đề của lứa tuổi THPT bao gồm: + Phòng tránh lạm dụng Game. + Phòng tránh rủi ro trong quan hệ giới tính + Phòng tránh sử dụng chất gây nghiện + Phòng tránh bạo lực học đường - Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực, trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kỹ năng thích hợp. 2.1.2. Một số nguyên tắc dạy học truyện ngắn theo hướng tích hợp với HĐGDKNS: -Đảm bảo đặc trưng của môn học: Môn ngữ văn nói chung, văn học nói riêng vừa có những đặc điểm của một môn khoa học vừa là một bộ môn nghệ thuật, nên khi dạy học phải chú ý đến tính 2 mặt của nó. Một mặt giúp học sinh nắm được những kiến thức trọng tâm mà mục tiêu bài học yêu cầu phải đạt được. Mặt khác thông qua hình tượng nghệ thuật, những phương tiện biểu đạt trong tác phẩm văn học người dạy giúp học sinh hình thành những rung cảm thẩm mỹ cũng như sự nhận thức, quan điểm sống và hành vi hướng tới cái đẹp, cái cao cả, cái tốt, cái thiện, đồng thời biết phê phán, đấu tranh để loại trừ cái thấp hèn, xấu xa, sự tàn ác. Từ đó xây dựng cho bản thân một cuộc sống tích cực, lành mạnh, hạnh phúc . - Đảm bảo nguyên tắc dạy học hiện đại: Phải lấy chủ thể học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học, còn giáo viên chỉ đóng vai trò là người định hướng, gợi mở cho học sinh cách tiếp nhận kiến thức. Đồng thời trong quá trình dạy học theo hướng tích hợp với HĐGDKNS giáo viên không được áp đặt một cách máy móc theo chủ quan của mình, mà phải phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thông qua nhiều cách thức khác nhau như: Bằng hệ thống câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề phù hợp với từng nhóm học sinh cụ thể, cho học sinh làm trắc nghiệm khách quan, để học sinh trãi nghiệm trong các tình huống, vận dụng những phương tiện kỹ thuật hiện đại: Xem phim, ảnh Sao cho những nội dung tích hợp vừa thiết thực, vừa bổ ích. - Đảm bảo đặc trưng thể loại: Tác phẩm văn học bao gồm nhiều thể loại khác nhau, mỗi thể loại đều mang những đặc trưng riêng biệt nổi bật. Vì vậy dạy học theo hướng tích hợp phải xuất phát từ đặc trưng thể loại mà định hướng cho học sinh khai thác các giá trị của tác phẩm để tránh sự sai lệch, áp đặt. Đối với truyện ngắn phải xuất phát từ việc khai thác những nét chính về tác giả, tác phẩm, nội dung cốt truyện, người kể chuyện,nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật, từ đó mới khái quát nên nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. -Đảm bảo yêu cầu tích hợp phù hợp: Chỉ tích hợp ở những tác phẩm có nội dung thật sự liên quan đến KNS, không được tích hợp tràn lan, gượng ép nhằm đảm bảo cho HĐGDKNS được diễn ra một cách tự nhiên, hợp lí, không khiên cưỡng. Mặt khác, nội dung tích hợp cần phải được lựa chọn một cách kĩ càng, tránh làm chương trình thêm nặng nề, quá tải, biến giờ dạy học văn chuyển theo hướng xã hội học dung tục, làm cho kết quả không diễn ra như mong muốn, thậm chi còn dẫn đến hậu quả phi giáo dục. 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Nền Giáo dục Việt Nam đã trang bị cho học sinh tương đối đầy đủ những kiến thức của tất cả các lĩnh vực: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học thường thức, những nguyên tắc, những quy phạm thuộc về các chuẩn mực đạo đức Nhưng việc GDKNS cho học sinh, nhất là học sinh THPT lại còn là một vấn đề nan giải. Nhiều học sinh THPT thiếu kinh nghịêm sống là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, khi phải đối diện với những thách thức trong cuộc sống không có khả năng giải quyết dẫn đến những suy nghĩ, nhận thức, thói quen cũng như hành vi tiêu cực làm ảnh hưởng trầm trọng không chỉ đối với riêng bản thân mà còn đối với xã hội (Như mắc bệnh AIDS, mang thai ngoài ý muốn, bị tâm thần vì thất bại trong thi cử) Vì vậy có thể khẳng định KNS như những nhịp cầu tạo thành cây cầu giúp cho học sinh đi sang được đến bờ bên kia của lối sống tích cực và nâng cao chất lượng cuộc sống. Cho nên tất yếu chúng ta phải chú trọng hơn nữa đến HĐGD KNS cho học sinh trong nhà trường. Các môn khoa học tự nhiên lấy những hiện tượng, những biến đổi trong môi trường tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Riêng môn ngữ văn, nhất là các tác phẩm văn học lại hướng ngòi bút vào khám phá con người và cuộc sống trong những hoàn cảnh và thời đại cụ thể. Chính vì vậy mà thông qua những hình tượng con người trong tác phẩm văn học nhà văn đặt ra những tình huống, những vấn đề, cũng như cách nhìn nhận, giải quyết những vấn đề, những tình huống mà mình đã đặt ra trong tác phẩm qua đó bộc lộ tư tưởng, tình cảm, quan điểm, thái độ của mình trước con người và cuộc đời. Chẳng hạn như thông qua chi tiết nhỏ trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao (Khi Chí Phèo bị bà Ba gọi vào để bóp chân, đấm lưng, Chí Phèo cảm thấy nhục chứ không hề thấy thích) hình thành được ở học sinh kỹ năng sống biết tự trọng. Đặc biệt là các tác phẩm văn xuôi từ 1945- 1975 trong chương trình ngữ văn cơ bản lớp 12 chứa đựng rất nhiều KNS như: Kỹ năng tự nhận thức (Rừng Xà Nu- Nguyễn Trung Thành), kỹ năng kiên định theo đuổi một mục tiêu (Những đứa con trong gia đình) KNS cảm thông, thấu hiểu (Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt) nhưng vẫn chưa được tích hợp đúng đắn và đầy đủ trong quá trình dạy học. 2.3. Một số giải pháp giảng dạy truyện ngắn theo hướng tích hợp với HĐGDKNS: 2.3.1.Nắm vững đặc trưng thể loại: - Truyện ngắn là thể loại tự sự, kể chuyện, trình bày sự việc. Nếu thi ca in đậm dấu ấn chủ quan của tác giả thì truyện lại mang đậm tính khách quan. Dù nó tái hiện những diễn biến của đời sống hay thể hiện những gì diễn ra trong tâm hồn con người cũng đều là cái tồn tại bên ngoài tác giả, chúng không phải là sự tự thể hiện cuộc đời và bộ mặt tinh thần của nhà văn. - Truyện phản ánh đời sống thông qua cốt truyện: đó là một chuỗi các tình tiết, sự kiện, biến cố được tổ chức, sắp xếp một cách hợp lí, lô gic nhằm phục vụ cho ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác giả, cho nên cốt truyện đóng một vai trò quan trọng trong thể loại truyện. - Trong diễn biến cốt truyện, các nhân vật hình thành, hành động, quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, bộc lộ đặc điểm, tính cách của mình. Nhân vật trong truyện thường được miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ, sinh động trên mọi khía cạnh, sắc thái và có mối quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh, với môi trường xung quanh. - Diễn biến cốt truyện và sự hoạt động của các nhân vật không bị hạn chế bởi không gian và thời gian, Truyện có thể kể về các khoảnh khắc về đời người, lại có thể kể về các sự kiện xảy ra trong bao thế hệ, có thể đưa người đọc trở về quá khứ, hoà mình vào hiện tại, hoặc hướng tới tương lai, có thể đi sâu vào tâm trạng con người, những cảnh đời cụ thể hay tái hiện những bức tranh đời sống toàn cảnh rộng lớn. - Ngôn ngữ trong truyện thường linh hoạt, đa dạng, gần gũi với đời sống. 2.3.2.Trên cơ sở nắm vững đặc trưng của truyện người dạy định hướng cho học sinh khai thác, tìm hiểu truyện theo các hoạt động sau: Bước 1:Tìm hiểu phong cách sáng tác của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Khi tìm hiểu về một tác giả văn học, giáo viên không chỉ giúp học sinh nắm được những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà văn đó, mà quan trọng hơn là phải giúp học sinh nắm vững và khắc sâu đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật của nhà văn đó, đây là cơ sở quan trọng để học sinh tiếp cận tác phẩm một cách đúng đắn. Chẳng hạn như dạy tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành phải cho học sinh hiểu rõ được nét nổi bật trong phong cách của nhà văn này là văn xuôi của ông đã đạt tới tầm vóc của những khúc sử thi hào hùng và thấm đẫm chất trữ tình lãng mạn để từ đó hướng học sinh vào khai thác tác phẩm ở những phẩm chất anh hùng lí tưởng của nhân vật cũng như sự bay bổng của tác phẩm trên đôi cánh ước mơ qua bức tranh rừng xà nu bất tận. Thấy được tính lịch sử cụ thể của diễn biến đời sống được miêu tả trong tác phẩm, từ đó hiểu thêm ý nghĩa của truyện. Bởi ngay cả trong những truyện đậm đặc yếu tố tưởng tượng, hư cấu, phóng đại vẫn ít nhiều mang bóng dáng thời đại mà tác giả đang sống. Chẳng hạn như tìm hiểu bối cảnh xã hội thời Vũ Trọng Phụng viết Số đỏ (1936) mới thấy rõ ý nghĩa lịch sử, tính chiến đấu mạnh mẽ của bức biếm hoạ có một không hai về xã hội “Thượng lưu” thành thị đồi bại, nhố nhăng mà tác giả đã vẽ lên bằng thủ pháp cường điệu, nghệ thuật trào phúng đặc sắc. Bước 2: Phân tích cốt truyện thông qua tình huống truỵện: Mở đầu - vận động - kết thúc với các tình tiết, sự kiện, biến cố cụ thể. Đó là quá trình đời sống cụ thể tạo nên nội dung của truyện. Đồng thời làm rõ giá trị của các yếu tố đó trong việc phản ánh hiện thực cuộc sống và khắc hoạ bản chất, tính cách nhân vật.Đặc biệt chú ý tới nghệ thuật tự sự thông qua những câu hỏi gợi mở: Người kể chuyện ở ngôi thứ mấy ? Điểm nhìn trần thuật từ bên trong hay bên ngoài? Cách sắp xếp các tình tiết, sự kiện như thế nào? Có hợp lí, hấp dẫn không? Tại sao?... Bước 3: Phân tích nhân vật theo diễn biến cốt truyện: Có thể nói đây là hoạt động chính mà lâu nay trong quá trình dạy học tác phẩm truyện ngắn giáo viên thừơng quan tâm đầu tư nhiều nhất, thậm chí có những văn bản người dạy chỉ chú trọng phân tích mỗi phương diện này. Song đầu tư tìm tòi để khai thác thành hệ thống, hình thành phương pháp tối ưu thì không phảI ai cũng làm được. Trong kinh nghiệm giảng dạy của riêng bản thân tôi, tôi nhận thấy để hoạt động phân tích nhân vật trong truyện ngắn vừa nhẹ nhàng, đơn giản vừa gợi được hứng thú cho học sinh và thu được hiệu quả cao chúng ta nên tiến hành định hướng cho học sinh phân tích nhân vật theo các bước sau: * Về nội dung: - Phân tích nguồn gốc, lai lịch của nhân vật. - Phân tích ngoại hình,diện mạo của nhân vật. - Phân tích hành động, ngôn ngữ của nhân vật. - Phân tích diễn biến nội tâm của nhân vật - Phân tích mối quan hệ giữa nhân vật với các nhân vật khác và giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh. * Về nghệ thuật : - Phân tích để thấy được sự độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn (chẳng hạn như sử dụng chi tiết có tiêu biểu không, có hợp lô gíc không, đặc tả ngoại hình hay nội tâm). - Phân tích nghệ thuật tạo tình huống để khám phá bản chấtcủa nhân vật (tốt hay xấu, thiện hay ác, cao cả hay thấp hèn). Từ cơ sở trên giúp học sinh khái quát nên hình tượng nhân vật trong tác phẩm đó tiêu biểu, điển hình cho tầng lớp nào, có cuộc đời, số phận ra sao, vẻ đẹp, phẩm chất, tính cách như thế nào? Bước 4: Tổng kết, đánh giá giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm: Nhà văn thường sáng tạo nhân vật để phát hiện những vấn đề của đời sống, qua đó gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời. Vì vậy giáo viên phải định hướng để học sinh khái quát được giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm thông qua những câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề như: Truyện đặt ra vấn đề gì, có ý nghĩa tư tưởng như thế nào? Qua truyện ngắn đó em có thể rút ra bài học gì cho bản thân ở các khía cạnh: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ. Bước 5: Tiến hành tích hợp với HĐGDKNS: Như đã nói ở trên, mỗi tác phẩm văn học đều là sự khám phá về con người và cuộc đời. Thông qua những hình tượng trong tác phẩm nhà văn đặt ra những tìng huống, những vấn đề cũng như cách giải quyết những vấn đề, những tình huống mà mình đã đặt ra trong tác phẩm, qua đó bộc lộ tư tưởng, tình cảm, quan điểm, thái độ của mình trước con người và cuộc sống. Đó chính là những bài học sâu sắc và thiết thực nhất. Vì vậy việc đưa HĐGD KNS cho học sinh thông qua dạy học tác phẩm văn học thì sẽ đồng thời đạt được cả hai mục tiêu: Thứ nhất là khắc sâu được kiến thức cơ bản của môn học, thứ hai là hình thành được ở học sinh những KNS thích hợp, cần thiết. Qua quá trình giảng dạy thực nghiệm bản thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm tích hợp như sau: - Một là: Khi tiến hành tích hợp giữa dạy học truyện ngắn với HĐGDKNS chỉ tích hợp ở những tác phẩm có liên quan đến vấn đề KNS. - Hai là: Không tiến hành tích hợp ở tất cả các khâu, các nội dung một cách ôm đồm, tràn lan mà chỉ tích hợp ở từng bộ phận ,cụ thể là chia nhỏ, rải đều vào trong từng phần, từng khâu một cách tự nhiên, hợp lí, để tránh gây cho học sinh cảm giác nặng nề, quá tải, vô tình biến giờ dạy học văn chuyển theo hướng xã hội học dung tục. Chẳng hạn khi phân tích câu nói của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, chúng mình phải cầm giáo”( Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) phải giúp học sinh thấy được đây là một quyết định hết sức đúng đắn và sáng suốt của mội người chỉ huy. Bởi chính quyết định này đã dẫn dắt dân làng Xô man cầm vũ khí đấu tranh bảo vệ sự sống cho quê hưong đất nước. Hay khi phân tích tình huống Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rôì chạy theo A Phủ trốn thoát khỏi Hồng Ngài để tìm đến một cuộc sống mới tươi sáng tốt đẹp hơn là một hành động đấu tranh tự phát, nhưng hoàn toàn hợp lí vì lúc này Mị đã bị dồn nén, chà đạp đến cùng cực không còn có thể chịu đựng hơn nữa. Đặc biệt là khi Mị đã gặp được một người đồng cảnh ngộ để có thể nương tựa vào nhau, nâng đỡ nhau thoát khỏi cuộc sống tăm tối, cùng cực. Vì vậy khi gặp phải những vấn đề hoặc tình huống phức tạp, khó khăn trong cuộc sống, chúng ta cần phải suy nghĩ, lựa chọn và đưa ra quyết định đúng đắn, kịp thời để giải quyết vấn đề sao cho đạt hiệu quả tối ưu nhất. - Ba là: Tích hợp thông qua quá trình liên hệ với thực tế rút ra từ tác phẩm nhưng với điều kiện là phải liên hệ một cách tự nhiên, tránh áp đặt, khiên cưỡng. Ví dụ như khi phân tích bi kịch của Tnú cần đưa ra những câu hỏi gợi mở nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh như: Vì sao khi Tnú đã có đầy đủ phẩm chất, sức mạnh của một người anh hùng Tnú vẫn không thể cứu sống được vợ con mình, anh vẫn bị giặc tra tấn bằng thứ nhựa cây của chính quê hương mình (vì lúc ấy anh chỉ có hai bàn tay không, cả làng Xô man cũng chỉ có hai bàn tay không nên tất yếu sẽ bị kẻ thù lợi dụng cả thứ nhựa cây thân thiết nhất của quê hương mình để tra tấn). Từ đó hình thành cho học sinh kĩ năng nhận thức về điều kiện và hoàn cảnh bởi đây là một kĩ năng sống quan trọng giúp con người hiểu rõ hơn về bản thân và hoàn cảnh của mình. - Bốn là: Phải tích hợp vào quá trình luyện tập kiểm tra. Bởi vì đây là khâu quan trọng xác định giờ học có hiệu quả hay không. Vì vậy muốn tích hợp thành công ở khâu này người dạy phải thay đổi cách thức ra đề, đồng thời khi ra đề phải phân loại được đối tượng học sinh. Cụ thể là phải ra những đề kiểm tra mở, nhằm phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện để học sinh khẳng định được năng lực của mình. Ví dụ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_day_hoc_truyen_ngan_theo_huong_tich_hop_voi_hoat_dong_g.doc