SKKN Chỉ đạo dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4

SKKN Chỉ đạo dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4

Khoa học là một môn học thực nghiệm và lí thuyết, đặc trưng này quyết định bản chất của phương pháp nhận thức khoa học.

Bản chất của phương pháp nhận thức khoa học là sự kết hợp thực nghiệm khoa học và tư duy lí luận, đề cao vai trò của sự chính xác .

Phương pháp dạy học khoa học phải tuân theo những quy luật chung của phương pháp dạy học đồng thời phản ánh được phương pháp nhận thức khoa học. Vì vậy phương pháp dạy học khoa học có những nét đặc trưng riêng đó là phương pháp truyền đạt có lập luận trên cơ sở thí nghiệm – trực quan, nghĩa là có sự kết hợp thống nhất phương pháp thực nghiệm – thực hành với tư duy khái niệm.

 Khi bắt đầu dạy khoa học phải xuất phát từ trực quan sinh động để đi đến hình thành các khái niệm trừu tượng của khoa học, càng lên lớp cao thì càng phải cần rèn luyện cho học sinh sử dụng khái niệm như công cụ của tư duy.

Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy rằng việc ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn khoa học ở Tiểu học là rất cần thiết, trong đó phương pháp thí nghiệm - thực hành được sử dụng khá nhiều.

Có thể nói đồ dùng thiết bị dạy học là yếu tố rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học các môn học ở Tiểu học. Việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên trên lớp góp phần đặt nền móng cho quá trình nhận thức của học sinh và tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp cận với nội dung bài học; giúp giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, chống "dạy chay" và giúp cho sự nhận thức của học sinh có cơ sở khoa học và hợp lý. Sử dụng thí nghiệm để dạy học tích cực là phương pháp đặc thù của các môn khoa học thực nghiệm trong đó môn Khoa học là một điển hình. Vai trò của thí nghiệm trong dạy học khoa học là rất quan trọng. Hannes Alfven - một nhà Vật lý học người Thụy Điển - đã từng nói “Khoa học mà không có thí nghiệm thì như một công trình nghiên cứu đi chệch hướng, chỉ còn là những phỏng đoán, tưởng tượng”.

 

doc 23 trang thuychi01 37752
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Chỉ đạo dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khoa học là một môn học thực nghiệm và lí thuyết, đặc trưng này quyết định bản chất của phương pháp nhận thức khoa học.
Bản chất của phương pháp nhận thức khoa học là sự kết hợp thực nghiệm khoa học và tư duy lí luận, đề cao vai trò của sự chính xác . 
Phương pháp dạy học khoa học phải tuân theo những quy luật chung của phương pháp dạy học đồng thời phản ánh được phương pháp nhận thức khoa học. Vì vậy phương pháp dạy học khoa học có những nét đặc trưng riêng đó là phương pháp truyền đạt có lập luận trên cơ sở thí nghiệm – trực quan, nghĩa là có sự kết hợp thống nhất phương pháp thực nghiệm – thực hành với tư duy khái niệm.
 Khi bắt đầu dạy khoa học phải xuất phát từ trực quan sinh động để đi đến hình thành các khái niệm trừu tượng của khoa học, càng lên lớp cao thì càng phải cần rèn luyện cho học sinh sử dụng khái niệm như công cụ của tư duy.
Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy rằng việc ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn khoa học ở Tiểu học là rất cần thiết, trong đó phương pháp thí nghiệm - thực hành được sử dụng khá nhiều. 
Có thể nói đồ dùng thiết bị dạy học là yếu tố rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học các môn học ở Tiểu học. Việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên trên lớp góp phần đặt nền móng cho quá trình nhận thức của học sinh và tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp cận với nội dung bài học; giúp giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, chống "dạy chay" và giúp cho sự nhận thức của học sinh có cơ sở khoa học và hợp lý. Sử dụng thí nghiệm để dạy học tích cực là phương pháp đặc thù của các môn khoa học thực nghiệm trong đó môn Khoa học là một điển hình. Vai trò của thí nghiệm trong dạy học khoa học là rất quan trọng. Hannes Alfven - một nhà Vật lý học người Thụy Điển - đã từng nói “Khoa học mà không có thí nghiệm thì như một công trình nghiên cứu đi chệch hướng, chỉ còn là những phỏng đoán, tưởng tượng”.
Trong chương trình Khoa học lớp 4, chủ đề “Vật chất và năng lượng” được dạy trong 37 bài. Đây là chủ đề chiếm thời lượng nhiều nhất trong môn Khoa học lớp 4 (chủ đề “Con người và sức khỏe: 19 bài; chủ đề “Thực vật và động vật”: 14 bài) và cũng là chủ đề “khó” tổ chức thực hiện đối với giáo viên, bởi có tới 50% số bài của chủ đề có yêu cầu thực hiện các thí nghiệm khoa học. Những bài đó cần chuẩn bị công phu, lập kế hoạch chặt chẽ, chi tiết và có những bài đồ dùng dạy học rất khó để giáo viên tự làm cũng như khó cho việc tổ chức sử dụng và khai thác. 
 Qua thực tế chỉ đạo chuyên môn tại trường Tiểu học Lộc Sơn và tham gia sinh hoạt chuyên môn cụm trường về môn Khoa học, bản thân tôi nhận thấy việc dạy môn Khoa học nói chung và dạy các bài thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng của giáo viên vẫn còn một số hạn chế như: đồ dùng được cấp phát chưa đủ phục vụ cho bài dạy; giáo viên ngại sử dụng, sử dụng chưa đúng lúc, đúng chỗ; chưa khai thác hết hiệu quả, tác dụng; chưa đầu tư thời gian, công sức làm thêm các đồ dùng, thiết bị cần thiết cho tiết dạy; và đặc biệt là việc hướng dẫn thực hiện các thí nghiệm khoa học của giáo viên rất lúng túng, sự thành công của các thí nghiệm khoa học tiến hành trong các giờ học còn hạn chế. Nhiều giáo viên sử dụng đồ dùng phương tiện dạy học chỉ nhằm minh họa cho lời giảng, ... Nhiều giờ học diễn ra đơn điệu, nhàm chán với những hoạt động quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa, thuyết trình, hỏi đáp, ghi chép trong khi lẽ ra các em phải được tham gia vào việc thực hiện các thí nghiệm khoa học, được tìm tòi, nghiên cứu, khám phá ra những nội dung thú vị trong bài học của mình. Vậy: Làm thế nào để phát huy được tính chủ động, tích cực của học sinh trong giờ học? Làm thế nào để sử dụng đồ dùng dạy học và tổ chức thực hiện các thí nghiệm khoa học hiệu quả? Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học nói chung và chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng theo đúng yêu cầu đặc trưng của môn học? là những vấn đề cấp thiết đang đặt ra cho mỗi giáo viên. Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Chỉ đạo dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4” làm nội dung nghiên cứu của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Mục đích của đề tài nhằm:
- Xác định các biện pháp nhằm cải tiến phương pháp dạy học Khoa học 4 theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học khoa học lớp 4, tập trung vào những bài có yêu cầu thực hành, thí nghiệm thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng”.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Nội dung và phương pháp dạy học khoa học lớp 4, cách sử dụng đồ dùng phương tiện dạy học khoa học lớp 4. Tập trung vào những bài thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng”
- Học sinh khối 4 của trường Tiểu học Lộc Sơn – Hậu Lộc – Thanh Hóa.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc tài liệu, tra cứu, phân tích các tài liệu khoa học, sách báo, hồ sơ có liên quan đến đề tài...
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, khảo sát, phỏng vấn, trao đổi, quan sát, tổng kết kinh nghiệm,...
- Các phương pháp bổ trợ: Toán học, thống kê,...
B- NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Một số đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học
	Nhiều nghiên cứu tâm lý học đã cho thấy, học sinh Tiểu học, đặc biệt ở các lớp đầu cấp thường tư duy dựa vào những tính chất, dấu hiệu trực quan, cụ thể của đối tượng. Sai lầm hay gặp của các em trong quá trình hình thành khái niệm là khái quát trên cơ sở những dấu hiệu không bản chất. Tuy vậy, cuối bậc Tiểu học, khi khái quát hóa để hình thành khái niệm, các em dần thoát khỏi sự chi phối mạnh của những dấu hiệu trực quan và ngày càng dựa nhiều hơn vào những dấu hiệu phản ánh mối quan hệ bản chất giữa các sự vật và hiện tượng được hình thành trong quá trình học tập. 
	Học sinh Tiểu học tìm tòi chủ yếu để “xem điều gì xảy ra” hơn là bắt đầu từ việc xem xét các khả năng và kiểm tra sự phù hợp của chúng. Ý kiến của các em (ví dụ khi dự đoán) thường dựa vào kinh nghiệm đã có hoặc chỉ là dựa vào trường hợp chung đã biết để xét một trường hợp cụ thể chứ chưa phải ở mức dựa vào một lí thuyết để suy diễn rút ra hệ quả.
	Học sinh Tiểu học chủ yếu tư duy với các biểu tượng gắn với những sự vật, hiện tượng cụ thể. Các em có thể suy nghĩ lôgíc nhưng phụ thuộc vào thông tin có từ các giác quan. Các em khó suy nghĩ về những cái trừu tượng.
	Khi quan sát, làm thí nghiệm, học sinh Tiểu học có xu hướng mô tả hơn là giải thích kết quả tìm thấy được của mình. Trong dạy học cần lưu ý mức độ cho phù hợp hoặc sự nâng dần, giúp các em phát triển. Chẳng hạn, cần hướng dẫn các em quan tâm tới những mối liên hệ trừu tượng cũng như cụ thể, tìm cách lí giải các kết quả, giải thích kết quả theo cách mà có thể vận dụng rộng rãi hơn cho cả tình huống khác; liên hệ những điều quan sát được với những hiểu biết khoa học, đề xuất cách giải thích dựa vào việc suy diễn từ kiến thức khoa học đã biết.
2. Về chương trình và sách giáo khoa
 Tích hợp các nội dung của các khoa học tự nhiên với khoa học về sức khỏe. Nội dung được lựa chọn thiết thực, gần gũi và có ý nghĩa với học sinh. 
 Chú trọng tới hình thành và phát triển các kĩ năng trong học tập khoa học như quan sát, dự đoán, giải thích các sự vật, hiện tượng tự nhiên đơn giản và kĩ năng vận dụng các kiến thức khoa học vào cuộc sống
 Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập nhằm tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, tự lực tìm tòi phát hiện ra kiến thức, và thực hành những hành vi có lợi cho sức khỏe, cá nhân và cộng đồng. 
	Trong sách giáo khoa Khoa học, chức năng hướng dẫn phương pháp dạy học của sách được quan tâm. Các kết quả quan sát, thí nghiệm, kết luận không được cung cấp sẵn. Vì vậy học sinh phải tích cực hoạt động, quan sát, làm thí nghiệm, suy nghĩ về những thông tin nhận được; thảo luận, trao đổi để rút ra các kết luận. Khối lượng kiến thức vừa phải, vì vậy có điều kiện tổ chức các hoạt động tìm tòi, khám phá,...
3. Về vai trò của đồ dùng, thiết bị dạy học
Thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện vật chất giúp cho giáo viên và học sinh tổ chức hợp lý có hiệu quả quá trình dạy học, giáo dục đối với các môn học trong nhà trường nhằm thực hiện chương trình dạy học. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, thiết bị đồ dùng dạy học là một trong những điều kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên, học sinh thực hiện mục tiêu dạy học. Thiết bị đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh huy động mọi năng lực hoạt động nhận thức, tiếp cận thực tiễn, nâng cao khả năng tự học, rèn luyện kỹ năng học tập và thực hành.
Thiết bị đồ dùng dạy học dưới sự điều khiển của người giáo viên có tác dụng rất to lớn: Làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn làm cho giờ học sinh động, hiệu quả hơn. Sự hỗ trợ đắc lực của thiết bị là cầu nối giữa người dạy và người học, làm cho hai nhân tố này gắn kết với nhau trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và làm cho chất lượng giảng dạy và học tập được nâng cao. 
 Việc dạy học khoa học phải sử dụng hệ thống phương pháp có kết hợp biện chứng thí nghiệm – thực hành với tư duy lí luận, vận dụng mô hình trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức khoa học. Trong giảng dạy khoa học chúng ta cần chấm dứt tình trạng dạy và học theo lối giáo điều không có thí nghiệm, không có đồ dùng trực quan .  
 II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 
1. Thuận lợi
- Trường đã được công nhận trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2 vào tháng 6/2011 nên cơ sở vật chất khang trang, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học - giáo dục. Đội ngũ giáo viên luôn tâm huyết, nhiệt tình trong công tác giảng dạy.
- Lãnh đạo nhà trường rất quan tâm đến công tác đổi mới phương pháp dạy học; làm và sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học; duy trì hội thi “Giáo viên giỏi”; “Đồ dùng dạy học tự làm” cấp trường hàng năm.Chính vì thế mà đồ dùng dạy học được bổ sung vào kho thiết bị nhà trường ngày càng phong phú tạo điều kiện để giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học một cách thường xuyên.
- Bản thân là một cán bộ quản lý trực tiếp chỉ đạo công tác chuyên môn ở trường nhiều năm, hai năm gần đây được tham gia tổ cốt cán bộ môn Khoa học của Phòng giáo dục và Đào tạo nên việc nắm bắt tình hình đổi mới phương pháp dạy học và sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học của giáo viên, học sinh sát sao, là điều kiện tốt để chỉ đạo việc đổi mới phương pháp dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” thuộc môn Khoa học lớp 4 đạt hiệu quả.
- Giáo viên hiểu được tầm quan trọng của thí nghiệm khoa học: “thí nghiệm” là một phương pháp dạy học tích cực đồng thời cũng là dạng phương tiện trực quan có hiệu quả. Đa số giáo viên thích sử dụng “thí nghiệm” vì nó tạo nên những hiện tượng mà học sinh ít được quan sát trong thực tế. 
- Đồ dùng, thiết bị dạy học môn Khoa học được cấp phát theo danh mục tối thiểu, một số thí nghiệm, thực hành sẵn có đồ dùng thiết bị cho giáo viên, học sinh sử dụng khá thuận tiện.
2. Khó khăn
- Một số giáo viên chưa nhận thức hết tầm quan trọng của đồ dùng, thiết bị dạy học đối với việc nâng cao chất lượng dạy học các môn học và tạo ra hứng thú cho học sinh khi tiếp cận với nội dung bài học. 
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên thường không thường xuyên. Chủ yếu thực hiện trong các giờ thao giảng, dự giờ,.... 
- Nhiều giờ học khoa học chưa đạt kết quả cao do giáo viên chưa tổ chức cho học sinh được tìm tòi, thí nghiệm để tự chiếm lĩnh kiến thức, chưa thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
- Trường chưa có phòng thí nghiệm, việc tổ chức thực hiện thí nghiệm gặp khó khăn. Do đồ dùng thí nghiệm không có nhiều nên hay phải bố trí học sinh ngồi theo nhóm lớn, phải di chuyển, sắp xếp bàn ghế mỗi khi tổ chức, mất khá nhiều thời gian,... Việc tổ chức khai thác đồ dùng chưa triệt để.
- Khi có đồ dùng thí nghiệm, giáo viên phải có thời gian làm thử để rút kinh nghiệm và để đảm bảo thí nghiệm thành công. Nhưng thường giáo viên không có nhiều thời gian để chuẩn bị nên khi lên lớp có nhiều tình huống xảy ra khi làm thí nghiệm làm cho giáo viên lúng túng, không chủ động khi xử lý, thậm chí có những thí nghiệm không thành công.
- Một số học sinh còn rụt rè, lúng túng, thao tác chậm trong khi làm thí nghiệm.
3. Kết quả thực trạng
	Qua việc phân tích những thuận lợi và khó khăn như trên, năm học 2014-2015 tôi đã tiến hành khảo sát đối với đội ngũ giáo viên và học sinh khối 4, 5 của trường về Vai trò của của đồ dùng thiết bị thí nghiệm; việc sử dụng đồ dùng thiết bị thí nghiệm trong dạy học; sự hứng thú do các thí nghiệm khoa học mang lại và kết quả học tập chủ đề “Vật chất và năng lượng” của học sinh và đã thu được kết quả như sau:
 - Kết quả khảo sát đội ngũ giáo viên:
Tổng số GV
Vai trò của ĐDDH
Việc sử dụng ĐDDH
Việc tự làm ĐDDH
Hứng thú khi sử dụng ĐDDH
Quan trọng
Không quan trọng
Thường xuyên
Chưa thường xuyên
Tích cực
Chưa tích cực
Hứng thú
Không hứng thú
16
14
2
8
8
8
8
10
6
- Kết quả học tập của học sinh sau khi học xong chủ đề “Vật chất và năng lượng”: 
Sĩ số
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
40
34
85%
6
15%
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên: Qua phân tích thực trạng tôi thấy việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Yêu cầu về đồ dùng thí nghiệm trong môn Khoa học nhiều nhưng đồ dùng cấp phát mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ. Giáo viên ngại chuẩn bị đồ dùng vì có những bài yêu cầu phải chuẩn bị thêm đồ dùng ngoài số được cấp phát; giáo viên không có nhiều thời gian nên việc tự làm đồ dùng phục vụ cho các thí nghiệm khoa học còn rất ít.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho việc tổ chức thực hiện các thí nghiệm khoa học còn hạn chế, gây khó khăn cho giáo viên khi thực hiện.
- Việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học còn lúng túng do giáo viên chưa biết kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Chưa tự tin áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại ...
- Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học thường mất thêm thời gian, yêu cầu phải có sự chuẩn bị công phu của cả giáo viên và học sinh nên nhiều giáo viên rất ngại sử dụng.
- Một số giáo viên thực hiện các thí nghiệm lúng túng do chưa nắm được quy trình, thao tác vụng về do không thường xuyên được rèn luyện; một số lại gặp khó khăn về kiến thức, về cơ sở suy luận để dẫn đến kết luận của bài học do kiến thức phổ thông có liên quan đã bị mai một,...
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho giáo viên về tầm quan trọng của đồ dùng, thiết bị đối với việc nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học nói chung, chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng
Trong những năm gần đây cũng như các bậc học, ngành học khác, bậc Tiểu học quan tâm nhiều đến đổi mới phương pháp dạy học. Theo quan điểm triết học duy vật biến chứng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan", quan điểm này càng có giá trị với học sinh Tiểu học. Hơn nữa theo quan điểm dạy học hiện đại: Quá trình dạy học không chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là giúp học sinh nhận thức một số kiến thức kỹ năng cụ thể mà cần phát huy tính tích cực chủ động, phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Vai trò của giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, còn học sinh có vai trò chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức. Để làm tốt được điều này thì sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học là không thể thiếu được. Đối với học sinh tiểu học, đồ dùng, thiết bị dạy học lại càng đặc biệt quan trọng vì nó giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh nhận thức sâu hơn nội dung bài học, hình thành tốt kỹ năng kỹ xảo. Thiết bị, đồ dùng dạy học là phương tiện, là điều kiện vật chất để đổi mới phương pháp dạy học.   
 Thiết bị dạy học có tầm quan trọng và thiết thực như vậy nhưng không phải cán bộ quản lý nào, giáo viên nào cũng xác định đúng mức tầm quan trọng đó cho nên tôi đã thực hiện việc nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ giáo viên nhà trường bằng các biện pháp, đó là:
 Tạo sự thống nhất trong công tác chỉ đạo bằng cách triển khai, quán triệt đầy đủ các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của ngành đến các tổ chức đoàn thể trong nhà trường và bản thân mỗi cán bộ giáo viên; tổ chức học tập, trao đổi, thảo luận, in ấn gửi đến tận tay nếu thấy cần thiết.
 Tổ chức cho giáo viên học tập nhiệm vụ năm học và các văn bản chỉ đạo của ngành một cách đầy đủ, giúp giáo viên thấy được việc làm và sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học thuộc vào quy chế chuyên môn nên mọi giáo viên phải tích cực thực hiện. Bên cạnh đó tổ chức cho giáo viên học tập, trao đổi về tầm quan trọng của đồ dùng, thiết bị dạy học đối với con đường nhận thức chân lý; đối với sự hứng thú, tích cực, chủ động,  của học sinh để từ đó tạo ra động cơ đúng đắn, tích cực cho giáo viên trong việc sử dụng đồ dùng, thiết bị đề nâng cao hiệu quả của bài dạy. 
 Tích cực tuyên truyền, giải thích để giáo viên thấy việc sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học có ảnh hưởng không những đến việc lên lớp của giáo viên mà còn cả sự phát triển về chuyên môn nghiệp vụ của mỗi người. Bởi vì kỹ năng sử dụng, khai thác đồ dùng dạy học là một mặt biểu hiện về kiến thức, kỹ năng sư phạm của giáo viên; cách chuẩn bị, sắp xếp đồ dùng, thiết bị là biểu hiện về nề nếp, tác phong làm việc khoa học và ý thức học tập trau dồi chuyên môn của mỗi người, 
 Sau một số tiết dạy thao giảng, chuyên đề có thể tổ chức cho giáo viên trao đổi, phân tích sâu để thấy được tác dụng cụ thể của đồ dùng, thiết bị dạy học đến việc nhận thức của học sinh; sự hợp tác của học sinh – học sinh, học sinh – giáo viên khi khai thác, sử dụng đồ dùng thiết bị; sự sinh động, hấp dẫn, tường minh do đồ dùng, thiết bị mang lại cho bài dạy,Để từ đó, giáo viên có ý thức quan tâm thoả đáng cho việc làm, chuẩn bị và sử dụng đồ dùng thiết bị hàng ngày của bản thân. 
2.Biện pháp 2: Bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học để tạo thuận lợi cho giáo viên tổ chức thực hiện các thí nghiệm khoa học hiệu quả khi dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng”
 Nhà trường chưa có “phòng thí nghiệm” riêng nhưng thuận lợi là trường còn dư 01 phòng học. Vì vậy tôi đã đề xuất với Hiệu trưởng lấy phòng dư thừa này sắp xếp lại để làm phòng cho giáo viên và học sinh tổ chức thực hiện các thí nghiệm khoa học. Căn cứ vào tình hình thực tế về thiết bị và sĩ số học sinh, năng lực của giáo viên, chúng tôi đã sắp xếp, bố trí kê bàn ghế trong “Phòng thí nghiệm” theo hình chữ U như sau:
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Bàn biểu diễn TN
Nhóm 4
Tủ, giá để thiết bị TN
 Ghi chú: “Bàn biểu diễn thí nghiệm” trong hình trên thường sử dụng khi học sinh báo cáo kết quả sau khi đã thực hiện thí nghiệm theo nhóm (hoặc GV biểu diễn lại các thí nghiệm khi cần thiết phải tường minh về một vấn đề).
 Bàn ghế dùng trong phòng thí nghiệm ưu tiên cho loại bàn ghế đúng quy chuẩn đối với học sinh lớp 4, 5 để thuận lợi cho việc di chuyển khi học tập theo nhóm. Vị trí để thiết bị đảm bảo đủ chỗ, an toàn và dễ sử dụng. Với việc sắp xếp phòng cho giáo viên, học sinh làm thí nghiệm như trên đã góp phần giải quyết khó khăn về cơ sở vật chất, tạo ra những thuận lợi cho giáo viên khi hướng dẫn, tổ chức cho học sinh thực hiện các thí nghiệm khoa học.
 Để tạo sự sẵn sàng cho việc sử dụng đồ dùng thiết bị thí nghiệm, tất cả các đồ dùng được cấp phát, mỗi khi nhận về tôi đều cho bổ sung vào danh mục đồ dùng dạy học của khối lớp, bóc dỡ nhãn mác và lắp đặt để trên giá. Yêu cầu cán bộ phụ trách thiết bị thường xuyên lau chùi, kiểm tra và xử lý những chi tiết hư hỏng. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, yêu cầu giáo viên nêu rõ tên đồ dùng dạy học cho môn Khoa học, cách sử dụng, các đồ dùng cần bổ sung thêm... để giáo viên nắm vững được nội dung dạy học cần sử dụng đồ dùng, thiết bị hỗ trợ và có kế hoạch sử dụng hợp lý.
 Để làm phong phú thêm nguồn đồ dùng, thiết bị thí nghiệm tôi đã phát động phong trào tự làm đồ dùng dạy học trong giáo viên và học sinh. Để việc bổ sung đồ dùng, thiết bị hiệu quả và thiết thực, tôi đã lên một bản thống kê bao gồm các mục: Tên bài học, đồ dùng đã có, đồ dù

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_chi_dao_day_hoc_chu_de_vat_chat_va_nang_luong_mon_khoa.doc