SKKN Cách làm mới phương pháp vấn đáp (đàm thoại) bằng sử dụng câu hỏi gợi mở trong giảng dạy một số bài môn giáo dục công dân lớp 11 ở trường THPT Thường Xuân 2
Theo quan điểm của Đảng: “ Giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, vừa là động lực , vừa là mục tiêu của sự phát triển bền vững xã hội. Giáo dục là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng , an ninh là bộ phận hữu cơ quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội .”
Phương pháp dạy và học tích cực đề cập đến hoạt động dạy và học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong đó có các hoạt động học tập được tổ chức, định huopwngs bởi giáo viên, người học không thụ động , chờ đợi mà tự lực, tích cự tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo.
Phương pháp dạy học cụ thể, mà là một khái niệm, bao gồm nhiều phương pháp, hình thức khác nhau nhằm tích cực hóa, tăng cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa khả năng học tập năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, để việc học đối với học sinh trở thành niềm hạnh phúc, sẽ giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Theo quan điểm của Đảng: “ Giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, vừa là động lực , vừa là mục tiêu của sự phát triển bền vững xã hội. Giáo dục là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng , an ninh là bộ phận hữu cơ quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội .” Phương pháp dạy và học tích cực đề cập đến hoạt động dạy và học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong đó có các hoạt động học tập được tổ chức, định huopwngs bởi giáo viên, người học không thụ động , chờ đợi mà tự lực, tích cự tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo. Phương pháp dạy học cụ thể, mà là một khái niệm, bao gồm nhiều phương pháp, hình thức khác nhau nhằm tích cực hóa, tăng cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa khả năng học tập năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, để việc học đối với học sinh trở thành niềm hạnh phúc, sẽ giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học đã có nhiều các nhà nghiên cứu, các tác giả đề cập đến và đưa ra các tiêu chí quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy và học. Tiêu chí hàng đầu của việc học và dạy là cách học. Phẩm chất cần phat huy mạnh mẽ là tính chủ động của người học. ( Các tác giả của dự án Việt- Bỉ) Vì muốn giảng dạy hiệu quả hơn, ngoài ra còn muốn gây sự chú ý cho học sinh về những nội dung trong chương trình môn GDCD lớp 11 cho nên tôi đã chọn đề tài là: “ Cách làm mới phương pháp vấn đáp ( đàm thoại) bằng sử dụng câu hỏi gợi mở trong giảng dạy một số bài môn giáo dục công dân lớp 11 ở trường THPT Thường Xuân 2”. Trong quá trình giảng dạy môn giáo dục công dân bản thân tôi đã kết hợp cả phương pháp cũ cả phương pháp mới. Đây là môn học cần nhất giữa lí luận và thực tiễn phải gắn với nhau, nếu không học sinh sẽ cảm thấy khô khan và khó hiểu. Có một điều đặc biệt khi giảng dạy môn này nếu không sử dụng phương pháp vấn đáp, đàm thoại sẽ không bao giờ đạt được kết quả như mong đợi. Cho nên phương pháp này là phương pháp tất yếu trong giảng dạy môn giáo dục công dân. Vấn đáp ( đàm thoại) theo cách cũ là hỏi rồi trả lời sẽ gây cảm giác nhàm chán cho học sinh. Cách làm mới cũng là hỏi đáp nhưng sẽ làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, dễ chịu và học còn là niềm vui khi được khám phá, được thể hiện bản thân thông qua những kiến thức mà các em đọc được trong sách giáo khoa hay những kiến thức mà các em tìm hiểu được ở bên ngoài. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Mục đích lớn nhất đó là mong muốn học sinh chú tâm vào môn học mà mình giảng dạy, và việc dạy học đạt được được kết quả tốt hơn. Trên cơ sở những quan điểm về phương pháp dạy học thì đó là một cách làm mới và sử dụng câu hỏi gợi mở hy vọng sẽ có những hiệu quả giống như mong đợi của tôi và của các đối tượng học tập nữa. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Là học sinh khối 11 học năm 2017- 2018 - Nội dung sách giáo khoa giáo dục công dân lớp 11, và những tài liệu liên quan. - Nghiên cứu thông qua chương trình. “ Âm vang xứ Thanh, đường lên đỉnh Olimpia” 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Đề tài sử dụng nhiều phương pháp trong đó chủ yếu là: phương pháp trình bày để hiểu hơn về cơ sở và bản chất của đề tài, phương pháp logic kết hợp với lịch sử, phân tích gắn liền với tổng hợp lí giải cho nội dung đề tài. Ngoài ra phải sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh để thấy được kết quả trong thực tiễn, để hiểu rõ hơn về đề tài nghiên cứu này. 2. NỘI DUNG. 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN. Theo từ điển thuộc viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2006 do Hoàng Phê chủ biên thì vấn đáp và đàm thoại được hiểu như sau: -Vấn đáp : Hỏi và trả lời. -Đàm thoại : Nói và trả lời giữa thầy giáo và học sinh nhằm gợi mở, kiểm tra củng cố kiến thức của học sinh. Theo tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn giáo dục công dân nhà xuất bản giáo dục do Mai Văn Bính chủ biên nói về một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. Trong đó phương pháp được đề cập và nói đến đầu tiên là phương pháp vấn đáp , đàm thoại. Và nó được nêu lên như sau: “ Vấn đáp đàm thoại là phương pháp mà trong đó giáo viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.” Ngoài ra phương pháp vấn đáp và đàm thoại có thể khuyến khích và từ đó hình thành cho học sinh thói quen tự học và khi chưa hiểu bản chất của vấn đề học sinh sẽ tìm hiểu hoặc hỏi giáo viên để thỏa mãn về nhu cầu mà mình đang vướng mắc. Học sinh vận dụng nhiều lần sẽ trở thành kĩ năng,thói quen không chỉ trong một thời gian ngắn mà trong cả cuộc đời để có thể lĩnh hội nhiều hơn nữa những tri thức của nhân loại. Đây là phương pháp cũ. Phương pháp này đã gắn bó với giáo viên và với cả học sinh ngay từ khi sự nghiệp giáo dục của loài người được khởi nguyên. Nó gần gũi với tất cả mọi người , mọi thành phần , mọi lứa tuổi. Vì vậy nên ông cha ta đã từng nói “ Không biết thì hỏi, muốn giỏi phải học” thể hiện được từ xưa về phương pháp học tập của cha ông ta, và ngày nay vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn của nó. Trong tài liệu bồi dưỡng giáo viên giáo dục công dân lớp 11 có nêu như sau: “Mục đích của phương pháp này là nâng cao chất lượng của giờ học bằng cách tăng cường hình thức hỏi đáp, đàm thoại giữa giáo viên và học sinh, rèn cho học sinh bản lĩnh tự tin khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể. Tạo hứng thú học tập của học sinh và tăng sức hấp dẫn của giờ học.” Đây là phương pháp kích thích tư duy của học sinh và thông qua đó học sinh sẽ thu nhận được nhiều tri thức bổ ích thậm chí có nhiều yếu tố thú vị mà phương pháp này có thể tạo ra cho người học và cả người dạy. Nhất là đối với khối lớp 11. Các em học về kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học và một số chính sách cụ thể trong đời sống để đất nước có thể phát triển. 2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ. *Thực trạng chung. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Tuy nhiên, việc dạy và học các môn trong nhiều trường phổ thông nói chung và môn giáo dục công dân nói riêng vẫn còn một số vấn đề sau: - Đối với GV: + Truyền thụ một chiều, giáo viên là người cung cấp và định chuẩn kiến thức cho học sinh. + Việc ứng dụng kĩ thuật dạy học chưa rõ ràng, đầy đủ trong quá trình tổ chức dạy học và tiến hành không theo đặc trưng của kĩ thuật, mới chỉ dừng lại ở mức độ hợp tác theo nhóm. - Đối với HS: + Cố gắng ghi nhớ, tiếp thu kiến thức, kĩ năng càng nhiều càng tốt mà ít chú ý đến làm cách nào để giải quyết được vấn đề và vận dụng kiến thức vào cuộc sống. + Trong quá trình học tập trên lớp cũng như ở nhà, các em ít trao đổi thông tin với nhau về phương pháp, cách thức, kết quả của bản thân. Vì vậy kết quả thường rơi vào tình trạng thiếu hoặc không tối ưu. *Thực tế ở trường THPTthường Xuân 2 - Đối với GV: + Vẫn còn tình trạng giáo viên đọc cho học sinh chép, đặc biệt là các buổi ôn thi hoặc các buổi phụ đạo, bồi dưỡng. + Trong một số tiết dự giờ thao giảng, trong đó có cả những giờ thao giảng giáo viên giỏi cấp trường vẫn còn trường hợp giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh nhưng rất chung chung. - Đối với HS: + Hiện tượng chờ đợi, lười suy nghĩ, ít tìm tòi còn phổ biến, đa số học sinh chỉ chờ giáo viên ghi bảng hoặc đọc để ghi vào vở. + Khi giáo viên tổ chức các hoạt động học tập thì ít học sinh tham gia hoặc tham gia cho có lệ, mang tính đối phó. * Nguyên nhân của thực trạng trên. - Chịu tác động nặng nề bởi mục tiêu thi cử, học để thi, dạy để thi, ngành giáo dục đang đổi mới phương pháp dạy và học tích cực nhưng chậm đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá. Các đề thi còn đòi hỏi nhiều kiến thức uyên thâm, phần hệ quả, kĩ năng và phần phương hướng giải quyết ít được chú trọng. Do đó việc dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, thông báo kiến thức mang tính đồng loạt, thiên về lý thuyết, xa rời thực tiễn, tập trung ôn luyện kiến thức đáp ứng thi cử, chưa thực sự quan tâm đến việc hình thành thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, phát huy tính sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Đa số quan điểm đổi mới phương pháp dạy học của những năm gần đây yêu cầu phải sử dụng phương pháp mới. Giống như một cuộc cách mạng về phương pháp. Những phương pháp mới được giáo viên tất cả các cấp học quan tâm, sửa đổi cho phù hợp với đối tượng người học mới và phù hợp với phương tiện hiện đại mới. Như : - Phương pháp động não. - Phương pháp dự án. - Phương pháp trò chơi. - Phương pháp xử lí tình huống. Đối với phương pháp vấn đáp (đàm thoại) hạn chế là: Phụ thuộc vào năng lực, thái độ của học sinh. Phương pháp này có thể làm nảy sinh nhiều tình huống ngẫu nhiên dhướng. Phương pháp này mất nhiều thời gian xây dựng hệ thống câu hỏi. Quá trình thực hiện phương pháp dễ biến thành cuộc tranh luận giữa giáo viên và học sinh. Với những khó khăn như trên thì bản thân tôi sẽ có những giải pháp làm mới để hạn chế những khó khăn đó. 2.3. BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 1. LÍ LUẬN CHO CÁCH LÀM MỚI . Như chúng ta đã biết học sinh cấp 3 và nhất là học sinh lớp 11. Khối lớp này luôn được đánh giá là khối lớp học nặng nhất trong ba năm cấp 3. Mà những kiến thức thuộc môn giáo dục công dân cũng khá khô khan và cứng. Sẽ tạo cho các em cảm thấy giờ học giáo dục công dân là những giờ học tra tấn đầu óc của các em. Muốn các em thoải mái, vui vẻ hợp tác giáo viên phải có nhiều cách để biến giờ học đó thành thú vị mà sau khi kết thúc tiết học rồi học sinh vẫn còn mong đợi nhanh đến tiết của tuần sau để biết thêm những điều thú vị khác và quan trọng là để năng lực của các em được đánh giá và công nhận. Tất cả các phương pháp mới hay các cách làm mới sẽ hiệu quả với một điều kiện nếu thiếu nó thì không phương pháp và cách thức nào có thể đạt hiệu quả như mong đợi của học sinh và giáo viên. Điều kiện đó là “ phải có sự đoàn kết, tôn trọng giữa thầy và trò.” (318 HCM về giáo dục) 2. LÀM MỚI TRÊN CƠ SỞ NỘI DUNG BÀI HỌC. Tôi sẽ không thực hiện hết tất cả các bài học trong chương trình lớp 11 mà chỉ thực hiện một số bài của khối lớp này để chứng minh cho cách làm mới đó. Trong tất cả các bài của khối lớp này đều thực hiện cách làm mới đó được nhưng giới hạn của sáng kiến này tôi sẽ thực hiện một số nội dung của bốn bài đó là : ( bài 1, bài 7, bài 11.) Sử dụng hình thức hỏi đáp thông qua một nội dung thi của chương trình: “Âm vang xứ Thanh” đó là phần thi tiếp sức. Các em sẽ có gợi ý và từ gợi ý đó sẽ suy nghĩ và cho biết nội dung cần trả lời là gì. Nếu từ gợi ý đầu tiên nếu các em trả lời được thể hiện tư duy của các em rất tốt. Nó cũng là bước đệm sau này khi các em bước ra khỏi trường phổ thông tham gia vào những môi trường lớn hơn hoặc tổ chức và viết nội dung cho các cuộc thi chắc chắn các em sẽ không bao giờ không vận dụng những gì mình đã có trước đó trong quá trình học phổ thông. Như chúng ta đã biết trò chơi truyền hình và cũng là một cuộc thi về trí tuệ : “ Âm vang xứ Thanh” trong đó có một phần thi là phần thi tăng tốc hệ thống câu hỏi có ba gợi ý tương đương với các mức thời gian ( 10 giây đầu là gợi ý thứ nhất, 10 giây sau là gợi ý tiếp theo, 10 giây cuối là gợi ý cuối cùng). Gợi ý đầu tiên mang tính chất sơ lược, gợi ý thứ hai rõ ràng hơn một chút so với gợi ý đầu, gợi ý thứ ba cụ thể hơn để các thí sinh có thể trả lời đúng và chính xác câu hỏi. Đối với Âm vang xứ Thanh trong phần thi tăng tốc sử dụng chủ yếu là kênh hình còn trong sáng kiến kinh nghiệm của mình khi áp dụng tôi chủ yếu sử dụng kênh chữ cũng không hoàn toàn giống như vậy nhưng đó là nguồn cảm xúc, là cơ sở đầu tiên để tôi thực hiện việc làm mới này. Đây là một hình thức được học sinh hào hứng và tham gia rất nhiệt tình. Riêng đối với học sinh cấp ba thì theo dõi những cuộc thi như thế là niềm vui, là một nhu cầu không thể thiếu. Nếu chúng ta đưa hình thức này vào áp dụng trong quá trình giảng dạy thì chắc chắn sẽ có những hiệu quả lớn. Không chỉ đối với học sinh khối 11 mà cả khối 10, khối 12 cũng thế. Để thấy được cách làm mới này hiệu quả thì tôi sẽ có hình thức vấn đáp (đàm thoại) theo cách cũ và cách làm mới sẽ song hành với nhau và để cụ thể hơn tôi xin trình bày vấn đáp theo cách cũ trước và vấn đáp theo cách làm mới sau. Để thấy rõ được sự khác biệt và hiệu quả của nó. Sau đây là bài đầu tiên. BÀI 1: CÔNG DÂN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ. ( theo cách cũ) Bài học này có 3 nội dung cơ bản. 1. Sản xuất của cải vật chất. 2. Các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. 3. Phát triển kinh tế và ý nghĩa của phát triển kinh tế đối với các cá nhân, gia đình và xã hội. *Vấn đáp ( đàm thoại) theo cách thông thường mà các giáo viên thường sử dụng sẽ có những câu hỏi đặt ra cho nội dung bài học mà tôi sẽ trình bày thông qua những câu hỏi sau đây: 1. Sản xuất của cải vật chất. Theo như trong sách thiết kế bài giảng giáo dục công dân lớp 11 sẽ có những câu hỏi đặt ra như sau: Con người tác động làm biến đổi tự nhiên như thế nào? Thế nào là sản xuất của cải vật chất? cho ví dụ chúng minh? Vai trò của sản xuất của cải vật chất là gì? 2. Các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Sách thiết kế bài giảng đặt ra câu hỏi như sau: Để tồn tại và phát triển con người cần phải làm gì? Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên với mục đích gì? Đối tượng lao động là gì?... Cách vấn đáp ( đàm thoại) đặt câu hỏi sau đó học sinh trả lời như trên các em sẽ nhìn vào sách có nội dung nào thì các em sẽ đọc và trình bày y như trong sách không có gì mới lạ. Những dấu hỏi trên thể hiện cho vấn đáp ( đàm thoại) theo cách cũ. Cách làm mới cũng là hỏi nhưng hỏi chỉ là gợi ý và thông qua gợi ý học sinh phải tìm đáp án là gì, hoặc không phải là câu hỏi mà đó là những câu trả lời và học sinh phải tìm đáp án đúng cho những câu trả lời là những gợi ý mà giáo viên nêu ra. Sau đây là những câu hỏi những gợi ý và những câu trả lời theo hình thức làm mới trong bài 1. Ba bài còn lại là bài 7, bài 11 và bài 13 cũng tương tự như bài 1. BÀI 1: CÔNG DÂN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ. (Cách tôi làm mới) Bài học này có 3 nội dung cơ bản. 1. Sản xuất của cải vật chất. Các yếu tố cơ bản của qúa trình sản xuất Phát triển kinh tế và ý nghĩa của phát triển kinh tế đối cá nhân, gia đình, xã hội. Nội dung của phần 1. Sản xuất của cải vật chất. Sẽ có những câu hỏi như sau thể hiện cho cách làm mới phương pháp này. Câu 1. Hãy trả lời cho những gợi ý sau đang nói về cái gì? - Con người làm gì để tạo nên các sản phẩm cho xã hội? Nếu học sinh trả lời chưa chính xác sẽ có gợi ý thứ hai. - Thông qua đó con người tạo ra của cải vật chất? Nếu học sinh chưa trả lời được sẽ có gợi ý tiếp theo. -Nó luôn gắn với một quá trình, hay một dây truyền để làm ra của cải , vật chất? Đáp án : SẢN XUẤT VẬT CHẤT. Câu 2. Gợi ý sau nói về cái gì? - Nó có thể là công cụ, vật dụng. Nếu học sinh không trả lời được sẽ có gợi ý thứ hai. - Nó có thể là các đồ vật. Nếu chưa trả lời được sẽ có gợi ý thứ ba. - Nó là những tài sản có giá trị. Đáp án: CỦA CẢI. Câu 3. Những gợi ý sau đang nói về điều gì? - Sự tác động của con người vào tự nhiên. Nếu chưa trả lời được sẽ có gợi ý thứ hai. - Sự tác động của con người làm biến đổi tự nhiên. Nếu chưa trả lời chính xác sẽ có gợi ý thứ ba. - Tác động làm ra các vật phẩm phù hợp với nhu cầu của con người. Đáp án: SẢN XUẤT CỦA CẢI VẬT CHẤT. Câu 4. Những câu trả lời sau đang nói đến nội dung gì? - Nó là cơ sở tồn tại của xã hội. Nếu học sinh trả lời chưa chính xác, có gợi ý sau. - Quyết định mọi hoạt động của xã hội. Nếu vẫn chưa chính xác . - Xã hội sẽ không tồn tại nếu ngừng sản xuất. Hoặc. - Thông qua sản xuất con người ngày càng hoàn thiện. Đáp án: VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT CỦA CẢI VẬT CHẤT. Nội dung của phần 2. : Các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Câu 1. Hãy trả lời cho những câu hỏi sau: - Cái gì tồn tại trong bản thân con người? Nếu trả lời chưa chính xác sẽ có gợi ý thứ hai. - Cái gì được gọi là năng lực của con người? Nếu vẫn trả lời chưa chính xác. - Cái gì mà thiếu nó con người cũng giống như vật kí sinh? Đáp án: SỨC LAO ĐỘNG. Câu 2. Hãy trả lời đó là hoạt động gì cho những câu hỏi sau: - Đó là một hoạt động của con người. Nếu trả lời chưa chính xác. - Là một hoạt động có mục đích, có ý thức. Nếu trả lời chưa chính xác. - Là hoạt động làm biến đổi tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Đáp án: LAO ĐỘNG Câu 3. Trả lời cho những câu hỏi sau: - Cái gì có sẵn trong tự nhiên? Nếu trả lời chưa đúng. - Cái gì vừa có trong rự nhiên vừa có qua tác động của con người? Nếu trả lời chưa chính xác. - Cái gì mà nhờ có con người nó ngày càng phong phú , đa dạng hơn? Đáp án: ĐỐI TƯỢNG LAO ĐỘNG Câu 4. Trả lời cho những câu hỏi sau: - Cái gì mà có nó con người đã tạo ra lịch sử của mình? Nếu trả lời chưa đúng. - Cái gì mà khi nó xuất hiện đã tách con người khỏi thế giới loài vật chuyển sang loài người và lịch sử cũng bắt đầu? Nếu trả lời chưa chính xác. - Cái gì mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động? Đáp án: TƯ LIỆU LAO ĐỘNG. Nội dung của phần 3: Phát triển kinh tế và ý nghĩa của phát triển kinh tế đối với cá nhân , gia đình và xã hội. Có những câu hỏi thể hiện cách làm mới như sau: Câu 1. hãy cho biết những nội dung sau đang nói đến khái niệm nào? - Khái niệm đó thể hiện sự tăng trưởng. Nếu trả lời chưa đúng. - Khái niệm đó thể hiện quy mô ngày càng lớn , tốc độ ngày càng nhanh. Nếu chưa trả lời chính xác. -Khi nó ngày càng đi lên sẽ làm cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ và giàu có hơn. Đáp án: PHÁT RIỂN KINH TẾ. Câu 2. những nội dung sau đang nói về điều gì? - Nó phát huy được mọi tiềm năng, nội lực của toàn bộ nền kinh tế. Nếu trả lời chưa đúng. - Nó phù hợp với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại. Nếu chưa trả lời chính xác. - Nó gắn với phân công lao động và hợp tác quốc tế. Đáp án: CƠ CẤU KINH TẾ HỢP LÍ. Câu 3. Những gợi ý sau đang nói đến điều gì? - điều đó thể hiện sự biến đổi. Nếu trả lời chưa đúng. - Điều đó thể hiện sự tiến bộ. Nếu trả lời chưa chính xác. - Điều đó làm cho mọi thứ từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đáp án: PHÁT TRIỂN. BÀI 7. THỰC HIỆN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VÀ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ QUẢN LÍ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC. ( Cách cũ) Gồm: 1. Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. 2. Vai trò quản lí kinh tế nhà nước. Vấn đáp( đàm thoại ) theo cách cũ. Phần 1 có những câu hỏi đặt ra như sau: ? Sở hữu tư liệu sản xuất được biểu hiện dưới mấy hình thức? ? Yếu tố nào là căn cứ trực tiếp để xây dựng thành phần kinh tế? ? Thành phần kinh tế là gì? Phần 2. Có những câu hỏi đặt ra như sau: ? Tại sao nhà nước lại có vai trò quản lí kinh tế? ? Vai trò quản lí kinh tế của nhà nước như thế nào? ? Làm thế nào để tăng cường vai trò và hiệu lực quản lí kinh tế của nhà nước? BÀI 7. THỰC HIỆN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VÀ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ QUẢN LÍ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC. ( Cách làm mới) Bài học gồm 2 nội dung. 1. Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. 2. Vai trò quản lí kinh tế nhà nước. Sau đây là những câu hỏi soạn cho cả hai phần trong bài 7. Câu 1. Trả lời cho những gợi ý sau: - Trong thời kì quá độ có nhiều thành phần kinh tế trước đây còn tồn tại. Nếu chưa trả lời đúng. - Đi lên Chủ Nghĩa Xã hội từ một nước nghèo, kém phát triển, ảnh hưởng của chiến tranh. Nếu chưa trả lời chính xác. - Đi lên CNXH từ một nước có lực lượng sản xuất với nhiều trình độ khác nhau. Đáp án: TỒN TẠI NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN LÀ TẤT YẾU KHÁCH QUAN. Câu 2. Hãy cho biết cụm từ đó là gì sau gợi ý. - Là cách thức để con người thực hiện và phát triển kinh tế. Nếu chưa trả lời chưa đúng thì có gợi ý thứ hai. - Nó thể hiện thông qua một hình thức sở hữu. Nếu chưa trả lời chính xác. - Là một biểu hiện của quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định. Đáp án: THÀNH
Tài liệu đính kèm:
- skkn_cach_lam_moi_phuong_phap_van_dap_dam_thoai_bang_su_dung.doc