SKKN Các biện pháp tích cực nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT
Trước thực trạng của chất lượng giáo dục về ý thức tự học của học sinh còn chưa được như mong đợi , bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm còn gặp nhiều khó khăn trong việc quản lí và giáo dục học sinh- bản thân tôi là giáo viên giảng dạy và kiêm nhiệm vai trò chủ nhiệm lớp luôn trăn trở với công tác quản lí và giáo dục học sinh trong tập thể lớp , đặc biệt là về vấn đề tự học của học sinh.
Đối với công tác chủ nhiệm ở cấp THPT thì việc xây dựng , tổ chức lớp có ý thức tự học tự sáng tạo là hết sức cần thiết và quan trọng hơn nữa là xây dựng một môi trường giáo dục có ý thức tự lực , có trật tự kỷ cương , xứng đáng là nơi đào tạo những con người với phương châm “ trường học tích cực , học sinh thân thiện” , và có nếp sống văn minh . Ngoài ra việc tự học tự sáng tạo còn có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đạo đức và liên quan mật thiết đến kết quả học tập của học sinh.
Qua thực tế giảng dạy và kiêm nhiệm , tôi nhận thấy rằng đại đa số những lớp có kết quả học tập tốt đều là những lớp có tổ chức nề nếp tốt , có sự đoàn kết cao trong hoạt động tập thể và có tinh thần tự học tự sáng tạo cao. Chính vì vậy để xây dựng được tập thể lớp vững mạnh thì đòi hỏi GVCN pahir xây dựng được môi trường lớp học có khuôn mẫu , có ý thức tự giác tự học hướng cho các em có ý thức xây dựng cho mình một nề nếp và ý thức trong học tập.
Bên cạnh đó, trong việc bàn về vấn đề tự học, tự sáng tạo của học sinh (HS), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Đối với khoản 2, Điều 5, chương I của Luật giáo dục nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2009) đã xác định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
` MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ 2 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Mục đích nghiên cứu 3 3. Khách thể nghiên cứu 3 II. NỘI DUNG 5 1. Những lý luận làm cơ sở khoa học cho việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này 5 2. Cơ sở thực tiễn về HĐTH của HS ở trường THPT 4 3. Nội dung đề tài 7 III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 15 I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI: Trước thực trạng của chất lượng giáo dục về ý thức tự học của học sinh còn chưa được như mong đợi , bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm còn gặp nhiều khó khăn trong việc quản lí và giáo dục học sinh- bản thân tôi là giáo viên giảng dạy và kiêm nhiệm vai trò chủ nhiệm lớp luôn trăn trở với công tác quản lí và giáo dục học sinh trong tập thể lớp , đặc biệt là về vấn đề tự học của học sinh. Đối với công tác chủ nhiệm ở cấp THPT thì việc xây dựng , tổ chức lớp có ý thức tự học tự sáng tạo là hết sức cần thiết và quan trọng hơn nữa là xây dựng một môi trường giáo dục có ý thức tự lực , có trật tự kỷ cương , xứng đáng là nơi đào tạo những con người với phương châm “ trường học tích cực , học sinh thân thiện” , và có nếp sống văn minh . Ngoài ra việc tự học tự sáng tạo còn có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đạo đức và liên quan mật thiết đến kết quả học tập của học sinh. Qua thực tế giảng dạy và kiêm nhiệm , tôi nhận thấy rằng đại đa số những lớp có kết quả học tập tốt đều là những lớp có tổ chức nề nếp tốt , có sự đoàn kết cao trong hoạt động tập thể và có tinh thần tự học tự sáng tạo cao. Chính vì vậy để xây dựng được tập thể lớp vững mạnh thì đòi hỏi GVCN pahir xây dựng được môi trường lớp học có khuôn mẫu , có ý thức tự giác tự học hướng cho các em có ý thức xây dựng cho mình một nề nếp và ý thức trong học tập. Bên cạnh đó, trong việc bàn về vấn đề tự học, tự sáng tạo của học sinh (HS), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. Đối với khoản 2, Điều 5, chương I của Luật giáo dục nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2009) đã xác định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Trên thực tế cho thấy tự học là tính vốn có của con người,là hoạt động tất yếu gắn liền với quá trình học tập. Nhưng thái độ, kỹ năng, phương pháp tự học của từng HS là khác nhau dẫn đến chất lượng học tập cũng khác nhau. Do đó, nâng cao năng lực tự học cho HS là một việc làm cần thiết và quan trọng của các nhà trường. Hoạt động học tập là một thành tố của quá trình dạy – học. Cho nên phương pháp dạy học, nội dung dạy học, điều kiện và môi trường dạy học ảnh hưởng đến quá trình học tập và năng lực tự học của HS. Vì vậy trong quá trình quản lý dạy – học phải hướng đến mục tiêu quan trọng là quản lý hoạt động tự học (HĐTH) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Có thể nói rằng , hiện nay ở trường THPT có nhiều học HS thực hiện tự học không đúng mục đích, đầu tư thời gian cho những trò chơi vô bổ như game online, chat, ... Sự biểu hiện yếu kém trong nhận thức, thái độ cũng như kỹ năng, phương pháp và năng lực tự học. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên (GV) chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới của giáo dục trung học phổ thông (THPT). Những ảnh hưởng chủ quan về nhận thức và tay nghề của đội ngũ GV, về ý thức trách nhiệm của gia đình và HS cần phải được phân tích nhằm xây dựng các biện pháp thích hợp, giải quyết tốt các mâu thuẩn giữa lý luận và thực tiễn về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo nhằm nâng cao năng lực tự học cho HS. Xuất phát từ vai trò, vị trí của bản thân và nhu cầu HĐTH hiện nay của HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi, tôi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Các biện pháp tích cực nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT ”, với mong muốn góp phần xây dựng các biện pháp, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về học tập của HS, giảng dạy của GV và công tác quản lý việc tự học của lớp chủ nhiệm bậc THPT. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Bản thân GVCN không thể lúc nào cũng có mặt trên lớp để chỉ đạo và nhắc nhở những công việc hằng ngày của lớp cũng như việc đôn đốc các em có tính tự giác trong học tập. Mặt khác , sự nhắc nhở quá nhiều lần khiến cho học sinh cảm thấy nhàm chán , nảy sinh tâm lí trây lười ỷ lại và thiếu trách nhiệm với bản thân. Vì vậy cần làm cho các em hiểu rõ về tính tự giác của mình trong học tập , không phải ai khác mà chính bản thân các em phải không ngừng học hỏi tự mình có trách nhiệm với bản thân để nâng cao kết quả học tập của mình và xây dựng tập thể lớp ngày càng vững mạnh. Chính vì vậy không còn con đường nào khác là “ tự học tự sáng tạo” Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn quản lý dạy học và thực trạng HĐTH của HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi, xác lập các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của HS. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Khách thể nghiên cứu Trong phạm vi của bài sáng kiến kinh nghiệm này , tôi nghiên cứu và áp dụng cho các khối lớp 10 và 11 cấp THPT. Quá trình quản lý đối với HĐTH của HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi Chủ thể quản lý HĐTH gồm giáo viên chủ nhiệm (GVCN), giáo viên bộ môn (GVBM), Cha mẹ học sinh (CMHS) và sự phối hợp các tổ, nhóm cá nhân học sinh đang học tập tại lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp quản lý hoạt động tự học nhằm nâng cao chất lượng tự học của HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi 3.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu : nhằm thu thập tài liệu , tổng hợp các nguồn thông tin hiện có và đã được công nhận kết hợp vói kinh nghiệm thực tiễn giúp bổ trợ cho việc giải quyết các mục tiêu nghiên cứu. Phương pháp phỏng vấn : Là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhằm có thêm những nguồn kiến thức , các suy nghĩ và ý tưởng độc đáo để có tầm nhìn rộng hơn. Đặc biệt là phỏng vấn trực tiếp các giáo viên bộ môn trực tiếp giảng dạy trên lớp, để từ đó lựa chọn được phương pháp phù hợp nhất cho lớp chủ nhiệm. Phương pháp quan sát sư phạm : Với đặc trưng của đề tài này , nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp là làm cố vấn , nên quan sát sư phạm cũng là phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng rộng rãi. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Nhằm kiểm định tính khoa học , tính thực tiễn và tính hiệu quả của phương pháp giáo dục tự học , giáo dục ý thức theo hướng “ tích cực nâng cao chất lượng tự học” bằng các biện pháp cụ thể như : + Thiết lập bộ máy tự quản + Bồi dưỡng đội tự quản lớp + Phân công nhiệm vụ cho học sinh + Kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện Lấy kết quả từ việc thi đua giữa các tổ trong tuần, so sánh với kết quả ban đầu và sau thực nghiệm để đánh giá mức độ và khẳng định được tính hiệu quả cảu phương pháp. Phương pháp kiểm tra sư phạm : Sau khi tổ chức thực nghiệm các kết quả được thu thập thống kê và đưa ra đánh giá cụ thể cho từng học sinh trong lớp. + Tổng điểm học tập của tuần- Xếp loại + Tổng điểm học tập của tháng – Xếp loại + Tổng điểm học kỳ , cả năm – Xếp loại II.NỘI DUNG Những lý luận làm cơ sở khoa học cho việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này: Trên thực tế , nói đến học tập là nói đến hình thức dạy - học và tự học. Việc học phải đi đôi với việc dạy và việc dạy phải hướng đến người học, đó là quá trình tương tác giữa GV và HS. Xét cho cùng, trong quá trình dạy học là giúp HS tự học để hoàn thiện và phát triển nhân cách của cá nhân nhằm đáp ứng với các chuẩn mực và nhu cầu trong sự phát triển chung của thời đại. Tự học gắn với cuộc đời của mỗi con người. Một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục đã đề cập đến vấn đề tự học dưới nhiều hình thức khác nhau. Dựa trên tài liệu tập huấn về công tác giáo viên chủ nhiệm trong trường THCS và THPT của BGDĐT in ấn tháng 6 năm 2011, trên cơ sở nhu cầu thực tiễn công tác chủ nhiệm đặt ra đối với từng giáo viên là cấp thiết . Tôi thiết nghĩ xây dựng tinh thần tự học trong tập thể lớp là thiết yếu đáp ứng được mục tiêu đào tạo của thời đại mới – thời đại công nghiệp 4.0 được áp dụng vào nghành giáo dục hiện nay. Con người làm chủ tương lai của đất nước, hòa nhập với cộng đồng thế giới không thể là một người thụ động , ngoan ngoãn giản đơn và chỉ biết vâng lời một cách dập khuôn máy móc, mà thực sự phải là người biết làm chủ mình biết tự thích nghi với cộng đồng và xã hội đang ngày càng phát triển hiện nay. Một thế hệ tương lai như vậy sẽ không thể hình thành nếu chúng ta không biết tạo cơ hội để họ tập dượt rèn luyện tính tự giác , tính năng động sáng tạo ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường THPT . Đây sẽ là một thành quả ban đầu giúp các em sau này ra đời tiếp cận với môi trường xã hội rộng lớn một cách dễ dàng và đầy tự chủ. Bên cạnh đó, trong giảng dạy chuyên môn chúng ta đang cố gắng và nổ lực thực hiện có hiệu quả phương pháp giáo dục tích cực – lấy người học làm trung tâm vì vậy cần phải đổi mới , phải thực sự coi việc giaó dục lấy học sinh làm trung tâm là một phương pháp tiến bộ và hiệu quả thiết thực nhất. Phải biến giáo dục thành tự giáo dục , tự ý thức , tự học tự sáng tạo của bản thân . Chỉ có như thế chất lượng giáo dục của chúng ta mới không bị tụt hậu , mới đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại – của thời đại công nghệ 4.0. 1.1. Trên thế giới Ngay từ thời cổ đại, Khổng Tử , Aristot là các nhà sư phạm kiệt xuất đã cho rằng: Dạy và học là phải trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức của HS và đòi hỏi HS phải biết kết hợp với suy nghĩ, biết năng động trong học tập. Cần cố gắng gợi mở để HS tự học trong hoạt động học tập của mình. Đến thời cận đại, nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc Komenxky đã khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng”. Năm 1657, ông đã hoàn thành tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại” trong đó nêu rõ: “Việc học hành, muốn trau dồi kiến thức vững chắc không thể làm một lần mà phải ôn đi ôn lại, có bài tập thường xuyên phù hợp với trình độ”. Trong giai đoạn hiện đại, các nhà giáo dục học đi sâu nghiên cứu khoa học giáo dục và đã khẳng định vai trò to lớn của tự học Rousseau khi xây dựng quan điểm dạy học cũng cho rằng: “cần hướng cho học sinh tự nắm lấy kiến thức bằng cách tự tìm hiểu, tự khám phá, tự tìm tòi và sáng tạo,...” Như vậy, tự học như là một phương thức để con người lĩnh hội tri thức của nhân loại. Từ những thập niên 30 – 40 của thế kỷ XX, trong cuốn “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” nhà sư phạm nổi tiếng Makiguchi Cho rằng “Giáo dục xét như một quá trình hướng dẫn tự học, động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng”. 1.2. Ở Việt Nam Truyền thống hiếu học và tự học đã được khẳng định qua các vị khoa bảng như Nguyễn Du, Chu Văn An, Lê Quý Đôn... Các thế hệ cha ông chúng ta đã vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức bằng nổ lực học tập và tự học. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam là một tấm gương sáng về tinh thần tự học và tự rèn luyện. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Bác Hồ đã căn dặn: “Về cách học, phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo thêm vào”. Tư tưởng của Người về giáo dục đã được vận dụng, quán triệt trong các Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II – Ban Chấp hành Trung ương (BCH TW) Đảng khoá VIII đã khẳng định: “ Đổi mới phương pháp dạy học nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học”, “Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên, rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên...”. Khi phát biểu chỉ đạo đối với ngành giáo dục, Nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng Đỗ Mười đã nhấn mạnh: Tự học – tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau; đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Có thể nói rằng ,đã từ lâu tự học đã được bàn luận và quan tâm của rất nhiều nhà khoa học, quản lý giáo dục. 2. Cơ sở thực tiễn về HĐTH của HS ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi: Đa số học sinh trường THPT Nguyễn Thị Lợi còn những hạn chế sau: - Tính tự giác của học sinh còn thấp , tinh thần tự học chưa cao, lười phát biểu chưa mạnh dạn tự tin. - Chất lượng tuyển vào lớp đầu cấp quá thấp về học tập. - Thói quen thụ động trong quá trình học tập, quen nghe, ghi, chép, nhớ và tái hiện lại những gì giáo viên nói. - Do chưa hình thành kỹ năng, phương pháp tự học, nên kiến thức của hầu hết HS tỏ ra hẫng hụt ngay từ đầu năm học, không nắm được các kiến thức đã học một cách hệ thống và khoa học và hầu như không vận dụng được kiến thức. - Giai đoạn chuẩn bị hoạt động tự học (lập kế hoạch, xác định mục đích nhiệm vụ tự học, tiến trình và thời gian cho hoạt động tự học) đa số HS không thực hiện được. Vậy nên việc xây dựng đề tài nghiên cứu với mục đích lựa chọn phương pháp giáo dục tích cực “ nâng cao chất lượng tự học của học sinh” nhằm phát huy tính tự giác tự nguyện , ý thức trách nhiệm của học sinh và đem lại hiệu quả cao trong công tác chủ nhiệm lớp tại trường THPT Nguyễn Thị Lợi năm học 2018- 2019 minh chứng. Để tìm hiểu thực tế về việc lập kế hoạch tự học của HS, bản đã tiến hành điều tra, quan sát, trò chuyện, trao đổi, thống kê... với một số HS và GV. Kết quả nhận được: *Ý kiến tự đánh giá của HS: Có 70% HS tự nhận là có lập kế hoạch tự học; trong đó: - Có đến 79% HS tự làm kế hoạch. - Còn lại 21% HS có sự giúp đỡ của GV, lớp, cha, mẹ, anh, chị. *Ý kiến của GV: Có 30,4% GV cho rằng HS có lập kế hoạch tự học. Trong đó: - HS lập kế hoạch tự học từng ngày: 68 % - HS lập kế hoạch tự học từng tuần: 22 % - HS lập kế hoạch tự học từng tháng: 2,5 % - HS lập kế hoạch tự học từng học kỳ: 4 % - HS lập kế hoạch tự học từng năm học: 3,5% Về mức độ thực hiện kế hoạch đó: - Thực hiện 100% kế hoạch đã vạch ra: 2,1% - Thực hiện 70% kế hoạch đã vạch ra: 28,9% - Thực hiện 50% kế hoạch đã vạch ra: 42% - Chưa thực hiện: 27% Qua ý kiến GV và tự đánh giá của HS cho thấy có sự chênh lệch về việc HS có lập kế hoạch tự học hay không lập kế hoạch. Hầu như các em nhận thức được tầm quan trọng của việc lập kế hoạch tự học, nhưng các em chưa có kỹ năng lập kế hoạch tự học. Do đó, hướng dẫn và rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch tự học cho HS là một vấn đề mà GVBM và GVCN cần quan tâm. 2.1. Thực trạng về hình thức tự học ngoài giờ lên lớp Qua điều tra có 70% HS tự học một mình. Trong đó có một số tự học theo ngẫu hứng, một số có vạch kế hoạch học môn gì và nội dung tự học do chính bản thân tự xác định. Tự học theo hình thức này có rất nhiều em gặp nhiều câu hỏi không trả lời được và mất nhiều thời gian để tìm câu trả lời, có lúc bế tắc, gián đoạn việc tự học và không hứng thú. Có 51% HS học theo nhóm bạn, thảo luận những vấn đề về môn học mà cá nhân không tự giải quyết được. Hình thức này đã mang lại hiệu quả và phát huy cao tính tổ chức, kỹ luật. Kết quả mang lại là các bạn trong nhóm hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn các vấn đề cần giải quyết của bài học cũng như rèn luyện được tính độc lập, tự chủ và hợp tác nhóm. Thực tế cho thấy HS có thói quen ngày mai học môn gì thì hôm nay học môn đó, chưa xếp lịch tự học hợp lí, không có mục đích đặt ra từ trước, không có ý chí tự mình phải khép vào khuôn khổ thực hiện việc học tập, thích thì học và không thích thì thôi. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng tự học của HS. 2.2. Thực trạng về tiến trình thực hiện hoạt động tự học và thời gian tự học của lớp chủ nhiệm với sĩ số 45 em Bảng 2.2. Đánh giá thực trạng tiến trình tự học TT Tự học của HS được tiến hành Mức độ Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ SL % SL % SL % 1 Học vào lúc sáng sớm 45 40 45 49 45 11 2 Học vào lúc rãnh rỗi 45 78 45 22 45 10 3 Học vào lúc đêm khuya 45 10 45 30 45 30 4 Học khi chuẩn bị kiểm tra và thi 45 80 45 33 45 2 5 Ngày sau có giờ, có bài liên quan 45 61 45 28 45 7 Qua bảng khảo sát 2.2, chúng ta thấy rằng có đến 80% HS sử dụng thời gian tự học khi chuẩn bị cho kiểm tra, thi cử; có đến 70% tự học khi rãnh rỗi và 61% tự học khi ngày sau có giờ, bài liên quan là thường xuyên. Bên cạnh đó, có đến 10% là không bao giờ học lúc rãnh rỗi và 2% không bao giờ học khi chuẩn bị thi và kiểm tra. Điều này cho thấy một số em hầu như không có ý thức tự học ngoài giờ lên lớp và không có sự quan tâm nhắc nhỡ của mọi người trong gia đình. Qua trao đổi với một số GV, đa số cho rằng việc sử dụng quỹ thời gian cho HĐTH hiện nay là chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong qua trình đổi mới phương pháp dạy học. Việc dạy thêm, học thêm của một số bộ môn do nhiều nguyên nhân khác nhau đã lấy đi nhiều thời gian của các em, nên quỹ thời gian còn lại là rất ít chỉ đủ để xem lại lý thuyết bài cũ, bên cạnh đó thì một số em chỉ biết giải trí chơi đùa qua phim ảnh, internet... và có chăng tự học chỉ đủ để nhằm đối phó với kiểm tra và thi cử. Những HS khá, giỏi thì việc tự học ở nhà cũng như trên lớp hay học thêm đều đạt mức độ khá tốt. Khả năng vận dụng tư duy chỉ tập trung ở các em có học lực giỏi. Tính tự lập trong học tập của các em là rất cao, biết cách tự học trong mọi hoàn cảnh, chịu khó suy nghĩ và tích cực học tập. Đa phần HS còn thụ động, không chịu khó suy nghĩ, thời gian dành cho học thêm quá nhiều mà lại không tích cực trong học tập. Nhiều HS chạy theo phong trào học thêm với bạn bè nhưng không có mục đích, không tự mình vận dụng trí tuệ, tri thức để giải quyết các bài tập cũng như không có thời gian để hấp thu bài giảng trên lớp. Sự ỷ lại trong học tập nhờ vào học thêm ở các thầy cô, mong muốn trúng tủ khi kiểm tra đạt điểm cao mà không quan tâm đến HĐTH của bản thân. Điều này, làm cho các em không nắm chắc kiến thức, sự hỏng kiến thức càng ngày càng tăng lên. 2.3. Khảo sát thực trạng về hoạt động tự học của học sinh Kết quả điều tra cho thấy việc sử dụng các phương pháp vận dụng kiến thức để giải bài tập, hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức, làm đề cương và học theo đề cương, tự kiểm tra và đánh giá kết quả tự học chỉ sử dụng thỉnh thoảng. Những phương pháp này chỉ được sử dụng chủ yếu khi kiểm tra 1 tiết, thi học học kỳ và một số em là chưa bao giờ sử dụng các phương pháp này chiếm 16%. Điều này cho thấy sự hứng thú trong học tập của một số đông HS chưa chú trọng, chưa chịu khó động não, tìm tòi trong quá trình tự học, không phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập. Đặc biệt chưa biết phân tích, tổng hợp các vấn đề của bài học để nắm lấy cốt lỏi, trọng tâm qua từng bài học. Qua trao đổi một số HS có học lực khá trở lên các em đưa ra một số nhận định: - Đối với các môn tự nhiên thì GV giảng dạy yêu cầu tự học cao quá nên phải đi học thêm và không còn thời gian để tự học. - Đối với các môn xã hội thì chỉ cần học thuộc bài trước khi đến lớp và soạn bài như SGK là đủ và chỉ học đối phó khi chưa có điểm miệng mà thôi. Còn đối với những HS trung bình – yếu thì các em do hổng kiến thức, trong khi lên lớp thì GV chỉ tập trung hoàn thành tiết dạy mà chưa có sự động viên khuyến khích cũng như giúp đỡ. Nên không có hứng thú trong từng môn học và không quan tâm đến kết quả học tập của mình. Qua trao đổi với một số GV hầu hết cho biết HS có học bài ở nhà, làm bài theo yêu cầu của GV nhưng chỉ nhằm đối phó khi kiểm tra. Phần lớn HS chỉ học thuộc những phần mà được ghi chép ở trong vở hay trong SGK. Những vấn đề yêu cầu cần mở rộng về phân tích, tổng hợp hay vận dụng kiến thức để chứng minh diễn giải một vấn đề thì HS lúng túng, chỉ có vài em có được khả năng này. Tất cả các bộ môn học thì HS chỉ có thói quen học thuộc lòng. Phần lớn HS chưa gắn kết giữa lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào thực hành bộ môn. Các hoạt động tự nghiên cứu ít được HS sử dụng. * Từ thực trạng n
Tài liệu đính kèm:
- skkn_cac_bien_phap_tich_cuc_nang_cao_chat_luong_tu_hoc_cua_h.doc