SKKN Biện pháp vận động học sinh để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ở lớp 1 trường Tiểu học Tén Tằn
Hiện nay, việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần ở trường tiểu học đóng một vai trò rất quan trọng trong việc học tập của học sinh nói riêng và trong việc thực hiện phổ cập giáo dục nói chung. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ và mang lại kết quả học tập tốt. Nhưng hiện nay, một số học sinh trong địa phương thuộc con em gia đình lao động nghèo, đa phần các em con của gia đình làm nông nghiệp. Chính vì mãi lo cho kinh tế gia đình một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của các em. Nên việc các em nghỉ học, bỏ học trong thời gian nhiều ngày ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài và kết quả học tập là điều không tránh khỏi.
Trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học ngày càng phổ biến. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học nhưng trong đó nguyên nhân chính là các em học tập tiếp thu bài rất chậm nên không thích đi học, không thích đến trường.
Xã hội ngày càng phát triển, thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao. Đòi hỏi trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu được kiến thức kĩ năng, kĩ xảo từ nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm đang ra sức phổ cập giáo dục ở các cấp học. Nhưng trên thực tế có biết bao nhiêu học sinh bỏ học giữa chừng. Biết bao nhiêu trẻ em không biết đọc, đọc viết không thông thạo mà đã nghỉ học.
Vì thế, qua nhiều năm công tác bản thân tôi luôn suy nghĩ và đặt cho mình câu hỏi: “ Làm thể nào để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ? ” Từ những trăn trở đó ,tôi đã có quyết định tìm hiểu và viết sáng kiến kinh nghiệm về “ Biện pháp vận động học sinh để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ở lớp 1 trường Tiểu học Tén Tằn ”. Đây cũng là một vấn đề giúp các em tiếp thu bài đầy đủ, có kết quả tốt trong học tập và tiếp tục con đường học tập của mình.
1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài. Hiện nay, việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần ở trường tiểu học đóng một vai trò rất quan trọng trong việc học tập của học sinh nói riêng và trong việc thực hiện phổ cập giáo dục nói chung. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ và mang lại kết quả học tập tốt. Nhưng hiện nay, một số học sinh trong địa phương thuộc con em gia đình lao động nghèo, đa phần các em con của gia đình làm nông nghiệp. Chính vì mãi lo cho kinh tế gia đình một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của các em. Nên việc các em nghỉ học, bỏ học trong thời gian nhiều ngày ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài và kết quả học tập là điều không tránh khỏi. Trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học ngày càng phổ biến. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học nhưng trong đó nguyên nhân chính là các em học tập tiếp thu bài rất chậm nên không thích đi học, không thích đến trường. Xã hội ngày càng phát triển, thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao. Đòi hỏi trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu được kiến thức kĩ năng, kĩ xảo từ nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm đang ra sức phổ cập giáo dục ở các cấp học. Nhưng trên thực tế có biết bao nhiêu học sinh bỏ học giữa chừng. Biết bao nhiêu trẻ em không biết đọc, đọc viết không thông thạo mà đã nghỉ học. Vì thế, qua nhiều năm công tác bản thân tôi luôn suy nghĩ và đặt cho mình câu hỏi: “ Làm thể nào để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ? ” Từ những trăn trở đó ,tôi đã có quyết định tìm hiểu và viết sáng kiến kinh nghiệm về “ Biện pháp vận động học sinh để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ở lớp 1 trường Tiểu học Tén Tằn ”. Đây cũng là một vấn đề giúp các em tiếp thu bài đầy đủ, có kết quả tốt trong học tập và tiếp tục con đường học tập của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Nhằm đánh giá lại môi trường giáo dục, chất lượng giảng dạy học sinh chậm tiếp thu ở trường tiểu học Tén Tằn trong những năm qua và hiện nay nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng. - Tìm ra những nguyên nhân tại sao việc học sinh chán học và hiện tượng học sinh có nguy cơ bỏ học vì không tiếp thu được bài học vẫn còn. - Đưa ra một số giải pháp trong việc đổi mới phương pháp giúp đỡ học sinh chậm tiếp thu học tập có tiến bộ hơn, tạo môi trường học thân thiện, gần gũi giúp học sinh ham thích học tập, thích đi học nhiều hơn 1. 3. Đối tượng nghiên cứu. Qua nhiều năm được phân công giảng dạy lớp 1. Tôi thấy học sinh hay vắng học vào các ngày gia đình có việc như làm vía,đám cưới,làm nhà mới hoặc nhà hàng xóm có việc gì đó ,các em còn nhỏ chưa làm giúp được việc gì nhưng các em vẫn thích ở nhà để được chơi rồi nghỉ học đến 2,3 ngày liền. Nên bị gián đoạn kiến thức ở các nội dung bài học.Dẫn đến việc học sinh chán học và vắng học vô lí do thường xuyên xảy ra.Vì vậy tôi đã chọn đề tài Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp vận động học sinh để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ở lớp 1. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. + Phương pháp lấy tư liệu : Trong quá trình nghiên cứu cần rất nhiều ý kiến, thông tin, tư liệu. Trong các cuộc họp có các ý kiến từ các giáo viên khác, Ban giám hiệu nhà trường, phụ huynh học sinh vvTrong quá trình làm công tác giảng dạy, một số kinh nghiệm từ đồng nghiệp là nền tảng giúp tôi nghiên cứu đề tài này. + Phương pháp học mà chơi, chơi mà học : Tổ chức nhiều sân chơi, đây là phương pháp giúp học sinh tham gia nhiều vào các hoạt động nhóm và tập thể, giúp các em có hứng thú trong học tập, vui chơi từ đó bớt rụt rè, e thẹn và có thêm tự tin. + Phương pháp đàm thoại : Đây là phương pháp nhằm tiếp thu ý kiến của phụ huynh, học sinh, của giáo viên chủ nhiệm. Đối với học sinh khi chúng ta trò chuyện trực tiếp với các em tạo cho các em sự gần gũi, thương yêu. Từ đó các em nói lên tâm tư tình cảm của mình về sự học tập, từ đó hiểu được nguyên nhân vì sao các em học không tiếp thu được. Sàng lọc học sinh thành nhiều cấp độ nhận thức và nắm bắt được cụ thể các học sinh tiếp thu chậm, cá biệt. + Phương pháp xử lý thông tin : Hàng ngày tôi kịp thời xử lý các thông tin, kết quả thu thập được trong quá trình nghiên cứu nhằm loại bỏ các biện pháp không thích hợp, đi sâu các biện pháp có tác dụng tích cực. Có được những hiểu biết sâu hơn về vấn đề đang nghiên cứu. + Phương pháp thực nghiệm : Đề xuất với phụ huynh một số phương pháp đổi mới nhằm nâng cao kết quả học tập cho học sinh chưa hoàn thành. Sau đó cùng nhau phối hợp đánh giá. + Phương pháp cải tiến : Qua việc tìm ra nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu từ đó đưa ra một số phương pháp cải tiến để tìm ra giải pháp tốt nhất làm cơ sở nghiên cứu. Chỉ ra rõ được những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của thực trạng. Từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục thực trạng và phát huy những thuận lợi đã có như lập kế hoạch dạy phụ đạo kết hợp với phương pháp dạy học bằng tình thương, Phương pháp giao việc cho học sinh chưa hoàn thành, phương pháp thư giãn, tạo môi trường giáo dục tốt, duy trì tốt công tác chủ nhiệm lớp trong các buổi tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp, hình thành và phát huy ở lớp phong trào “Giúp bạn vượt khó”. Ngoài ra để công tác chủ nhiệm lớp đạt kết quả cao thì giáo viên cần phối kết hợp chặt chẽ với gia đình phụ huynh 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm : + Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi : Học sinh tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng các em rất nghịch, hiếu động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình. Khả năng tiếp thu kiến thức nhanh hay chậm của từng nhóm đối tượng học sinh cũng khác nhau. Ở các em ý thức học tập chưa có, chưa hiểu rõ mục đích của việc học. Các em đi học phần lớn là do sự bắt buộc của gia đình, chỉ một phần nhỏ là ham thích đi học ( vì đi học được cô khen, được dán bông hoa học tốt, được chơi cùng bạn vv). Do đó ý thức tự giác học tập của các em chưa có (với những em đi học vì sự bắt buộc của gia đình ) nên các em thiếu sự cần cù, sự cố gắng vượt qua khó khăn để học tập dễ sinh ra lười biếng, ham chơi và dẫn đến học tập chưa hoàn thành , chán học và bỏ học Ở lứa tuổi học sinh tiểu học ,nhất là học sinh lớp Một tính tò mò phát triển, các em thường ham thích cái mới, cái lạ. Dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài, không thay đổi hình thức. Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục biết quan tâm tạo sự ham thích cho các em trong học tập, trong các hoạt động ở trường, lớp thì mới có động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả năng tiếp thu, và thực hành các kĩ năng, kĩ xảo mà chúng ta cung cấp cho các em. Từ đó các em học tập có tiến bộ. Ở lứa tuổi này tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt chước, dễ thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày khi đến trường các em được thầy cô ân cần chỉ bảo. Trong học tập các em được hoạt động nhóm, được làm thí nghiệm, chơi các trò chơi học tập thì các em sẽ ham học hơn và thích đi học hơn. Sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động thực tế như hoạt động giao lưu, tập thể và nhóm ; Qua sự tác động của môi trường cơ sở vật chất như trường, lớp, qua thái độ của thầy cô, bạn bè. Do đó trong nhà trường chúng ta phải tìm ra những giải pháp thích hợp để giáo dục đối với từng đối tượng trẻ em, định hướng đúng đắn cho trẻ trong các hoạt động giáo dục, dạy học và vui chơi của trẻ một cách phù hợp nhất, tạo một bầu không khí, một môi trường thật thân thiện để mỗi học sinh thấy vui thích và trông đợi được đến trường. Xem trường lớp như ngôi nhà thứ hai của mình. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của học sinh chúng ta cũng không thể áp dụng một cách cứng nhắc, dập khuôn hình mẫu phát triển của học sinh trong giai đoạn đó mà còn tuỳ thuộc vào tố chất, năng lực, thể lực của học sinh đó cũng như những tác động của gia đình và xã hội của mỗi một cá nhân học sinh mà ta có những cách thức giáo dục thích hợp nhất cho chúng để chúng có thể phát triển một cách hài hoà trong học tập, nhận thức và hành vi khi chúng tham gia vào các mối quan hệ với cộng đồng xã hội trong tương lai. 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.2.1: Thực trạng a. Về phía nhà trường và giáo viên. Trường tiểu học Tén Tằn là thuộc xã vùng cao, vùng sâu biên giới của huyện Mường Lát, cách thị trấn Mường Lát 13 km về phía Tây và có ranh giới tiếp giáp như sau: Phía Nam giáp xã Pù Nhi; Phía Tây giáp nước CHDCND Lào; Phía Đông giáp xã Tam Chung và Thị trấn Mường Lát; Phía Bắc giáp nước CHDCND Lào và xã Tam Chung. Là trường có khá nhiều học sinh dân tộc cùng học tập, môi trường học tập tương đối khó khăn, cơ sở vật chất chưa đầy đủ, có 5 điểm trường nằm rải rác ở các khu lẻ, điều kiện đi lại còn nhiều khó khăn, trong đó có đa số học sinh là con em các dân tộc Thái, Dao, Khơ Mú nên nhận thức có sự chênh lệch. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học như chúng tôi phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vất vả. Những ngày bắt đầu vào năm học mới, học sinh lớp tôi đến lớp chưa đủ, em thì chưa muốn đi học, có em còn theo cha mẹ vào tận nương rẫy trên núi cao chưa về. Bản thân tôi là một người giáo viên được sinh ra và lớn lên tại quê hương Tén Tằn, huyện Mường Lát, nên tôi thấu hiểu hơn ai hết nỗi khó khăn vất vả của những người học sinh vùng cao nơi đây, trình độ dân trí còn thấp, số hộ nghèo còn nhiều, nhiều người dân còn mù chữ, học sinh dân tộc ít người lại đông chiếm 98% số học sinh toàn trường. b. Về phía học sinh : Trong cuộc sống hàng ngày ngoài giờ lên lớp các em còn phải phụ giúp cha mẹ công việc gia đình như lên nương, đi chăn bò,trông em.... Hoàn cảnh của gia đình em học sinh quanh vùng. Những ngày bắt đầu vào năm học mới, học sinh lớp 1A của tôi chưa đến lớp đủ, em thì chưa muốn đi học, có em còn theo cha mẹ vào tận nương rẫy trên núi cao chưa về. c. Về phía phụ huynh Trình độ học sinh trong một lớp không đồng đều, số em học tốt thì rất ít, em chưa hoàn thành thì còn nhiều. Việc giáo dục con cái phụ huynh thường phó mặc cho nhà trường. Như chúng ta đã biết một phần nhỏ các bậc cha mẹ của học sinh là người đi trước không được học hành nên ảnh hưởng đến vấn đề nhận thức của các bậc phụ huynh, phụ huynh xem nhẹ việc học tập của con em mình. Trong nhiều năm qua có rất nhiều em trong trường cuối năm còn lưu ban, các em không thích đến trường, tới lớp (các em đi học vì sự bắt buộc của gia đình, vì sợ bố mẹ cho ăn đòn nhiều hơn tự nguyện đến trường). Nhiều em rất ít tiếp xúc với các thầy cô, chán học và trốn học đi học không đều. 2.2.2. Nguyên nhân a. Về phía học sinh : Những nguyên nhân học sinh đi học không chuyên cần : Học sinh ham chơi , chểnh mảng việc học. Học sinh thích thể hiện cá tính của mình bằng cách chống đối : chống đối trường lớp, thầy cô, cha mẹ và chống lại việc học. Bị mất kiến thức hoặc do một nguyên nhân nào đó mà học sinh không đi học được khi học những bài học sau không hiểu từ đó sinh ra chán học, dẫn đến học tập sa sút. c. Về phía phụ huynh: Do gia đình vì một lí do nào đó (về kinh tế, tình cảm vv...) không quan tâm đến sự học hành của con cái. Phó mặc mọi việc cho nhà trường. Dẫn đến các em không có ý thức tự giác trong học tập. Do trong gia đình có sự thay đổi lớn như: bố uống rượu, hay cãi vã đánh nhau, gia đình tan vỡ vv Làm cho trẻ bị thay đổi về tâm lí dẫn đến chán học Một số cha mẹ quá nuông chìu con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi la cà ...) cha mẹ đi làm không biết con cái đi đâu, làm gì, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém dẫn đến chán học! Để đổi mới phương pháp dạy học sinh chưa hoàn thành thì việc đầu tiên nhà trường luôn quan tâm đến việc tạo sự hứng thú cho học sinh trong học tập, tạo sự ham thích trong học tập, ham thích được đi đến trường và cần chú ý những phương pháp, biện pháp sau: 2.2.3. Tiến hành khảo sát: Tôi đã tiến hành khảo sát mức độ đi học đầy đủ và chuyên cần của học sinh lớp 1A từ đó lấy căn cứ để làm cơ sở kiểm chứng sau này. Kết quả thu được như sau Số học sinh Đi học chuyên cần Đi học chưa chuyên cần SL % SL % 24 5 21% 19 79% Qua số liệu khảo sát trên cho ta thấy mức độ học sinh đi học đầy đủ và chuyên cần là rất ít và rất đáng lo ngại, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dạy của giáo viên và chất lượng học của học sinh. Vậy vấn đề đặt ra ở đây chính là cần phải có những biện pháp cụ thể, hiệu quả và phù hợp để cải thiện tình trạng học sinh nghỉ học nhiều. Là một giáo viên đã nhiều năm đứng trên bục giảng, bản thân tôi lại là giáo viên địa phương được dạy ngay chính con em của quê hương mình, sau những chăn trở tôi xin mạnh dạn được đưa ra những biện pháp để cải thiện những hiện trạng trên. 2.3. Các giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề. Giải pháp 1: Xác định nguyên nhân, lập kế hoạch dạy phụ đạo Ngay từ đầu năm học tôi đã thống kê được số lượng học sinh tiếp thu bài chậm và có nguy cơ trở thành học sinh Chưa hoàn thành các hoạt động giáo dục ở lớp mình. Phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự tiếp thu bài chậm đó ở học sinh. Phân loại học sinh theo những nguyên nhân chủ yếu và có kế hoạch giúp đỡ thích hợp với từng loại. VD: Học sinh học có kết quả Chưa hoàn thành vì ham chơi và hay chơi với bạn xấu,nhác học hoặc vì hoàn cảnh gia đình. Từ đó giáo viên có kế hoạch dạy phụ đạo vào các buổi cho thích hợp, giải quyết việc học không tập trung,tiếp thu chậm của học sinh, từ những nguyên nhân trên. VD: Học sinh Chưa hoàn thành vì mất kiến thức từ ban đầu thì tổ chức phụ đạo cho các em lấy lại kiến thức, Chưa hoàn thành vì ham chới thì quản lí các em tốt hơn tổ chức các hình thức vui chơi để các em ham thích học tập học sinh Chưa hoàn thành vì hoàn cảnh gia đình thì giáo viên phối hợp với phụ huynh để tìm biện pháp tháo gỡ Giáo viên cần xác định được mức độ học sinh tiếp thu của từng em, như các em còn học chậm môn gì ? kiến thức gì ? Tôi có một cuốn sổ để theo dõi chất lượng học sinh tiếp thu chậm ở lớp mình biện pháp đã đề ra, sự chuyển biến của học sinh theo từng tuần ,từng tháng Giải pháp 2: Phương pháp dạy học bằng tình thương: Để giúp đỡ học sinh tiếp thu bài chậm giáo viên phải biết sử dụng lời nói, cử chỉ, tổ chức các hoạt động dẫn dắt các em vào bài học, giúp các em yêu mến bạn bè, trường lớp, thầy cô...Giáo viên muốn học sinh ham thích học thì trong tiết dạy điều cần thiết là phải thể hiện được tác phong sư phạm mẫu mực, gần gũi, ân cần với học sinh. Tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh. Trong giảng dạy giáo viên lưu ý lời nói phải nhẹ nhàng, giữa giáo viên và học sinh luôn có sự ăn ý nhịp nhàng, khi giảng bài giáo viên phải luôn quan sát học sinh trong lớp, đặc biệt những em tiếp thu bài chậm hay nghịch ngợm. Mỗi lần học sinh có ý kiến nếu trả lời sai thì phải giúp học sinh hiểu cái sai, không nên để cho học sinh ngồi xuống mà không biết mình sai điểm nào, đừng để học sinh bị mất mặt trước mặt bạn bè, làm trò cười cho lớp học. Không sử dụng thước làm công cụ doạ học sinh, sử dụng thước nhẹ nhàng tránh việc gõ thước quá mạnh làm học sinh giật mình. Biết động viên, khích lệ học sinh dù các em chưa thật sự tiến bộ hay tiến bộ rất chậm. Giáo viên biết sử dụng năng khiếu của mình làm tiết học thêm sinh động. Ví dụ: Tìm những câu truyện vui kể cho các em, hay pha một vài câu hài hước để học sinh cảm thấy thoải mái... Một tiết học mà học sinh hoạt động vui vẻ, có tiếng cười sẽ có hiệu quả hơn. Để các em tiếp thu bài chậm mạnh dạn hơn thì giáo viên phải biết yêu thương, gần gũi, tạo sự thân tình để các em hòa đồng vào môi trường học tập ở trường lớp. Để từ đó các em có ấn tượng tốt với trường lớp, thầy cô mà ham thích học tập. Giáo viên phải biết gần gũi tâm sự, với trò chuyện với những học sinh Chưa hoàn thành đặc biệt những em nhút nhát. Hỏi các em về chuyện gia đình, về chuyện học hành, để các em cảm thấy thân thiện với giáo viên hơn và qua đó giáo viên sẽ hiểu được nguyên nhân vì sao các em học Chưa hoàn thành, hiểu về tâm tư tình cảm, hoàn cảnh các em để có biện pháp dục tốt hơn. Ví dụ : Nhà em ở đâu? Bố mẹ làm gì ? Hôm nay ai chở em đi học? Hôm nay em có hiểu bài không? Có cần cô giúp gì không vv... Nhiều khi chỉ một câu nói, một cử chỉ của thầy cô mà thay đổi cả cuộc đời các em. Làm cho các em thấy thầy cô luôn quan tâm đến mình, không ghét bỏ mình và các em thêm gần gũi, yêu mến thầy cô, tự tin vào bản thân mình (Như một lời khen hay một lời khuyến kích, động viên, một cử chỉ thân mật). Đối với những em còn thiếu tự tin thì giáo viên nên tìm lấy một ưu điểm nào đó của các em để khen ngợi động viên. Hãy luôn khen học sinh, cố tìm ưu điểm dù nhỏ nhất để khen. Ngoài ra nếu có thể cuối học kì cần phải khen thưởng một mặt cho các em Chưa hoàn thành mà học tập có tiến bộ ở một mặt nào đó. Nhằm động viên các em có thêm hứng thú trong học tập, tránh tình trạng chỉ khen thưởng cho học sinh học tốt ... Giải pháp 3: Phương pháp giao việc cho học sinh chưa hoàn thành. Để học sinh chưa hoàn thành học tập có kết quả chúng ta cần cho học sinh thấy các em luôn được thầy cô tin tưởng, thương yêu, được làm việc có ích cho trường, lớp thầy cô bằng cách giao việc cho các em làm. Giáo viên thường xuyên tìm những việc nhỏ, thích hợp hàng ngày ở lớp để giao các em làm. Đặc biệt những học sinh chậm tiếp thu lại có tính nhút nhát, rụt rè để các em mạnh dạn, gần gũi thầy cô hơn. Và các em này sẽ rất vui, rất tự hào và cảm thấy mình đã làm việc có ích và từ đó học tập được tốt hơn. VD : Nhờ các em cắt dán tranh ảnh vào góc học tập, quét lớp, nhờ tưới cây, khiêng bàn ghế,Làm cho các em thêm gần gũi với thầy cô và cảm thấy mình được thầy cô tin tưởng giao phó nhiệm vụ trước lớp từ đó các em có thêm chút tự tin vào bản thân mình, gần gũi trường, lớp hơn. Ham học và cố gắng học tập hơn... Đặt biệt là những học sinh chưa hoàn thành vì ham chơi, vì không chịu học thì chúng ta cần làm cho các em này yêu thích trường lớp, rồi mới yêu thích học tập. VD: Có một học sinh cá biệt lớp 1A: Em Vi Văn Nghị, Lương Văn Thành nhìn khuôn mặt các em rất hiền, học tiếp thu rất chậm, đến trường lại hay đánh bạn, nghịch ngợm...là học sinh lưu ban nhiều năm. Tôi hay phân cho các em đó làm trực nhật. (nói rằng đây là nhiệm vụ rất quan trọng các em phải cố gắng làm thật tốt). Chỉ trong vòng vài ngày em đó không còn nghịch phá nữa. Đến trường ăn mặc gọn gàng và làm công tác trực nhật rất tích cực. Và trong vòng một tháng học lực của em Vi Văn Nghị đã chuyển biến từ học Chưa hoàn thành chuyển lên Hoàn thành. Đó là do khi được phân công làm trực nhật em đó thấy mình được tôn trọng và cố gắng xứng đáng với sự tôn trọng đó, xứng đáng với nhiệm vụ được giao nên đã tự giác sửa mình tốt hơn, cố gắng học tập tốt để các bạn, thầy cô tôn trọng mình hơn. Trong giảng dạy ở lớp cũng vậy tôi cũng giao cho các em học chưa hoàn thành bài tập ở lớp, (nhằm giúp các em lấy lại kiến thức đã mất) lưu ý là ở mức độ vừa phải tránh ngay lúc đầu đưa ra một lượng kiến thức quá lớn khiến các em thấy việc học quá nặng nề. Khi giao việc giáo viên phải biết được việc đó các em làm được không quá sức, và phải kiểm tra thường xuyên việc thực hiện ở các em,phải khen ngợi khi em hoàn thành công việc...Tránh không kiểm tra công việc đã giao... Giải pháp 4: Phương pháp thư giản (vui chơi) trong các tiết học: Trong học tập có rất nhiều môn học khô khan, nặng về kiến thức như toán, chính tả vvĐối với học sinh thường không có hứng thú học những môn này (trừ những em Hoàn thành tốt thì ham học ). Như vậy để tạo được sự hứng thú, ham thích việc học ở học tiếp thu chậm giáo viên cần tăng cường các trò chơi, hình thức học tập sinh động trong tiết học. Khi tổ chức một trò chơi thì học tiếp thu chậm sẽ tham gia hết mình và qua trò chơi giáo viên giúp học sinh nắm được kiến thức, hiểu được bài hơn. Ngoài các trò chơi giáo viên cần tổ chức các hình thức học tập sinh động khác để giúp học tiếp thu chậm có hứng thú trong học tập như đóng kịch, phỏng vấnTrong các tiết ôn, giáo viên đều phải tổ c
Tài liệu đính kèm:
- skkn_bien_phap_van_dong_hoc_sinh_de_duy_tri_si_so_va_dam_bao.doc