SKKN Biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 11 hiểu đúng về nguyên nhân mất nước ta cuối thế kỉ XIX trong bài 19, 20 (SGK Lịch sử lớp 11 - Cơ bản) ở Trường THPT Lê Lai
Đất nước ta, dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử với nhiều thành tựu và chiến công huy hoàng rất đáng tự hào, như Hồ Chí Minh đã dạy:
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử Việt Nam, đó là đạo lý muôn đời của dân tộc “ uống nước nhớ nguồn”.
Lịch sử đóng vai trò quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ và không thể thiếu được trong việc học tập của học sinh ngày nay là chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì thế mà môn lịch sử đã được đưa vào giảng dạy ở các bậc học nhưng đối với học sinh hiện nay đều xem môn học lịch sử chỉ là môn học phụ, rất nhàm chán không thiết thực. Đa số học sinh hiện nay, đặc biệt là học sinh phổ thông đều có một câu hỏi là “ Học lịch sử để làm gì”? Và tại sao phải học lịch sử”? Lịch sử là môn học rắc rối với quá nhiều sự kiện khó nhớ, dài dòng. Học lịch sử là không cần thiết và học chỉ lấy điểm điều kiện cho qua thôi”.
Việc dạy học lịch sử ở trường THPT Lê Lai cũng vậy, tôi nhận thấy thái độ của các em đối với môn học khá hời hợt, coi thường và đôi khi nhiều em còn bỏ qua không thèm đụng đến vì các em cho rằng ngoài là môn học khô khan với những con số thì còn nhiều sự kiện hiện tượng khó hiểu, khó mường tượng khi chỉ được miêu tả bằng những dòng chữ loằng ngoằng. Nhất là khi giảng dạy cho các em về nội dung bài 19 và 20(SGK lịch sử lớp 11- cơ bản), cả một chặng đường dài của lịch sử với những biến cố lớn lao cho đến ngày nay còn nhiều nội dung phải tranh cãi nhưng chỉ phân phối vẻn vẹn 4 tiết học khiến giáo viên rất khó có thể truyền thụ một cách sâu sắc đặc biệt là trong việc tìm hiểu nguyên nhân mất nước ta dưới thời nhà Nguyễn.
MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Mở đầu. 1.1. Lý do chọn đề tài Đất nước ta, dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử với nhiều thành tựu và chiến công huy hoàng rất đáng tự hào, như Hồ Chí Minh đã dạy: “ Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử Việt Nam, đó là đạo lý muôn đời của dân tộc “ uống nước nhớ nguồn”. Lịch sử đóng vai trò quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ và không thể thiếu được trong việc học tập của học sinh ngày nay là chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì thế mà môn lịch sử đã được đưa vào giảng dạy ở các bậc học nhưng đối với học sinh hiện nay đều xem môn học lịch sử chỉ là môn học phụ, rất nhàm chán không thiết thực. Đa số học sinh hiện nay, đặc biệt là học sinh phổ thông đều có một câu hỏi là “ Học lịch sử để làm gì”? Và tại sao phải học lịch sử”? Lịch sử là môn học rắc rối với quá nhiều sự kiện khó nhớ, dài dòng. Học lịch sử là không cần thiết và học chỉ lấy điểm điều kiện cho qua thôi”. Việc dạy học lịch sử ở trường THPT Lê Lai cũng vậy, tôi nhận thấy thái độ của các em đối với môn học khá hời hợt, coi thường và đôi khi nhiều em còn bỏ qua không thèm đụng đến vì các em cho rằng ngoài là môn học khô khan với những con số thì còn nhiều sự kiện hiện tượng khó hiểu, khó mường tượng khi chỉ được miêu tả bằng những dòng chữ loằng ngoằng. Nhất là khi giảng dạy cho các em về nội dung bài 19 và 20(SGK lịch sử lớp 11- cơ bản), cả một chặng đường dài của lịch sử với những biến cố lớn lao cho đến ngày nay còn nhiều nội dung phải tranh cãi nhưng chỉ phân phối vẻn vẹn 4 tiết học khiến giáo viên rất khó có thể truyền thụ một cách sâu sắc đặc biệt là trong việc tìm hiểu nguyên nhân mất nước ta dưới thời nhà Nguyễn. Tôi đồng tình với quan điểm của PGS.TS Vũ Quang Hiển về nhận định: “Không có học trò dốt sử, mà chỉ có những người thầy chưa giỏi về dạy sử” [6] . Song làm thế nào để các em cảm thấy dễ dàng đón nhận những kiến thức thầy cô truyền đạt một cách chủ động, biết đánh giá vấn đề một cách khách quan, đúng với thực tế lại là một điều còn khó hơn . Mặt khác, giúp các em hiểu sâu hơn về lịch sử dân tộc, yêu thích say mê hơn đồng thời phát huy tính tích cực và năng lực phân tích các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sửnhằm bồi dưỡng kĩ năng và hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho các em, bản thân tôi rất tâm huyết với bộ môn cùng nhiều năm giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm với bạn bè đồng nghiệp, qua dự giờ thao giảng tôi cũng xin mạnh dạn trình bày một kinh nghiệm nhỏ về: Biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 11 hiểu đúng về nguyên nhân mất nước ta cuối thế kỉ XIX trong bài 19, 20 (SGK lịch sử lớp 11- cơ bản) ở Trường THPT Lê Lai. Với sáng kiến này tôi hy vọng sẽ góp phần giúp đồng nghiệp tiến hành giảng dạy bài học 19, 20 lịch sử lớp 11 một cách đơn giản mà hiệu quả cao. Giúp các em chủ động trong việc nhận thức đánh giá khách quan các sự kiện hiện tượng lịch sử một cách thấu đáo hòng nâng cao lòng tự hào truyền thống dân tộc. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Đối với giáo viên: Với mong muốn mang kiến thức lịch sử đến gần với các em, hiện thực hóa các sự kiện lịch sử vốn mông lung trong quá khứ để giúp thế hệ trẻ có cái nhìn nhận đúng đắn về quá khứ. Trong phạm vi nhỏ của đề tài, tôi muốn giúp các em học sinh khối 11 trường THPT Lê Lai có cái nhìn đúng đắn, khách quan hơn về lịch sử dân tộc thời kì Pháp đặt chân đến xâm lược và lý do đi đến việc mất nước trách nhiệm đó thuộc về ai. Để các em đánh giá đúng về công tội của triều đình vua chúa Nguyễn cũng như giúp các em rút ra được bài học trong thời kì hiện tại cần phải làm gì để giữ nước và bảo vệ vững bền chủ quyền biển đảo dân tộc. Vì vậy, đề tài tôi chọn không nằm ngoài mục đích đó. Đối với học sinh: Việc đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh đã góp phần quan trọng trong việc tuyển chọn và phân loại đúng năng lực, trình độ của học sinh; thúc đẩy học sinh cố gắng khắc phục thiếu sót hoặc phát huy năng lực, sở trường của mình; đánh giá sự phát triển nhân cách nói chung so với mục tiêu đào tạo và yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời giải toả gánh nặng tâm lí bộ môn và xây dựng cho các em tình yêu với môn học nhiều giá trị này. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu của tôi tập trung vào đối tượng học sinh khối 11 Trường THPT Lê Lai năm học 2017 - 2018 nhằm đánh giá tổng kết lại quá trình thực nghiệm phương pháp mới để thay đổi nhận thức của học sinh khi học xong hai bài 19 và 20 (SGK lịch sử lớp 11- cơ bản). Từ đó rút ra những kinh nghiệm mới cho bài học tiếp theo. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ của đề tài, tôi đã kết hợp một số phương pháp nghiên cứu sau: a. Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu: Để có được nguồn tài liệu chính thống đảm bảo nội dung cần nghiên cứu, việc phân tích tổng hợp tài liệu sẽ giúp tôi thu thập thông tin chính xác khi đưa ra vấn đề cần luận giải cho học sinh. b. Phương pháp lịch sử và lôgic Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôi sử dụng hai phương pháp cơ bản trên nhằm liên kết nội dung mang tính hệ thống chặt chẽ , phối hợp với kiến thức các nghành khoa học liên quan như triết học, quân sự, kinh tế...nhằm xâu chuỗi các vấn đề, các sự kiện để làm nổi bật bối cảnh lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ. c. Phương pháp thống kê và xử lý số liệu Tôi đặt nhà Nguyễn vào bối cảnh cụ thể của thế giới và khu vực để thấy được những biến động phức tạp mà đất nước ta phải đối mặt. Đồng thời đưa các em đến với những con số, những dẫn chứng cụ thể và phân tích quy luật phát triển để tìm ra sự thật 2. Nội dung của sáng kiến 2.1. Cơ sở lý luận Thi hào Wiliam.A Ward đã từng nói: "Người thầy trung bình chỉ biết nói , người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh họa, còn người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng"[2]. Môn Lịch sử có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Bước sang thế kỷ XXI, xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ. Càng giao lưu, hội nhập quốc tế, càng cần thiết phải giữ vững bản sắc dân tộc, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước và ý thức trách nhiệm công dân. Chính vì thế ta phải giúp học sinh hiểu vì sao phải học lịch sử. Càng quan trọng hơn là chúng ta phải giúp học sinh hiểu tường tận về nguồn gốc lịch sử dân tộc, hiểu sâu sắc về từng bước chuyển mình của mỗi một thời kì để các em có thể chủ động nhìn về quá khứ một cách khách quan. Đó không chỉ là sự hiểu biết đúng đắn quá khứ mà còn giúp ta hành động tốt hơn về hiện tại và tương lai. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức khách quan để đánh giá những sự kiện đã diễn ra trong lịch sử nói chung và việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp trong thời kì cầm quyền của vương triều phong kiến Nguyễn nói riêng là một điều vô cùng quan trọng. Trên cơ sở vận dụng lý luận vào quá trình thực nghiệm xin được nêu lên kinh nghiệm giải quyết khó khăn vừa nêu trên qua đề tài: Biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 11 hiểu đúng về nguyên nhân mất nước ta cuối thế kỉ XIX trong bài 19, 20 (SGK lịch sử lớp 11- cơ bản) ở Trường THPT Lê Lai 2.2. Thực trạng dạy học môn lịch sử tại trường THPT Lê Lai 2.2.1. Thực trạng chung Qua những năm giảng dạy lịch sử ở trường THPT Lê Lai tôi thấy lịch sử là một môn học khô khan, ít sinh động và nội dung kiến thức nhiều nên học sinh rất thụ động và hầu như không yêu thích bộ môn lịch sử. Bên cạnh đó, một số giáo viên có thâm niên chủ yếu dạy chay theo lối truyền thống hoặc ngại sử dụng công nghệ thông tin khiến tiết học trở nên nhàm chán. Còn học sinh lại coi môn học là phụ không cần thiết nen lơ là không chú ý khiến chất lượng môn học không cao. 2.2.2. Thực trạng dạy bài 19, 20 – lịch sử lớp 11 tại trường THPT Lê Lai * Về phía giáo viên. Khi giảng dạy bộ môn lịch sử lớp 11 bài 19 và 20 Việt Nam thời cận đại , các em sẽ tìm hiểu về một giai đoạn có thể nói là hết sức cam go với những diễn biến phức tạp mà cho đến nay vẫn còn nhiều công trình nghiên cứu đang tranh cãi thảo luận sôi nổi. Trước đây, do nhận thức vấn đề chưa đầy đủ, đã từng có những đánh giá khá nặng nề về triều Nguyễn, như cho là “ phản động toàn diện”, là “ cõng rắn cắn gà nhà” là “ rước voi về dày mã tổ”, để rồi cam tâm bán nước cho giặc. Vì vậy để đánh giá nhìn nhận lại một cách khách quan đúng đắn về vấn đề nước ta rơi vào tay thực dân Pháp – trách nhiệm có phải hoàn toàn thuộc về nhà Nguyễn hay không đòi hỏi một thời lượng rất dài để trình bày. Tuy nhiên số tiết học dành cho giai đoạn kháng chiến bảo vệ độc lập cuối thế kỉ XIX chỉ gói gọn trong bài 19 và 20 với vẻn vẹn 4 tiết học. Vì vậy dung lượng kiến thức quá lớn khiến giáo viên khó có thời gian để chỉ cho học sinh thấy một cách cặn kẽ quá trình chúng ta mất nước như thế nào và do đâu. *Về phía học sinh Một vấn đề tôi cho là rất nguy hiểm đó là sự nhận thức về quá khứ của các em quá nông cạn, có cái nhìn hoàn toàn sai lệch về lịch sử giai đoạn 1858 – 1884 khi Pháp tới xâm lược và biến nước ta trở thành thuộc đia. Đại đa số học sinh khi được hỏi về nguyên nhân mất nước, các em đều đổ lỗi do Nhà Nguyễn ngu dốt, hèn hạ... do cái nhìn chủ quan phiếm diện. Bởi vậy, trách nhiệm của người làm thầy đứng trên bục giảng không chỉ dạy cho các em kiến thức cơ bản mà còn phải biết chỉ ra cho các em cách nhìn nhận sự việc bằng sự suy xét của lý trí. Có như vậy các em mới nâng cao ý thức trách nhiệm của mình đối với vân mệnh tổ quốc trong bất kì hoàn cảnh nào, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác để sẵn sàng đối phó với nhiều âm mưu thủ đoạn hòng chống phá chính quyền cách mạng nước ta. 2.3. Biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 11-Trường THPT Lê Lai hiểu đúng về nguyên nhân mất nước ta cuối thế kỉ XIX trong bài 19, 20. 2.3.1. Đặt Việt Nam vào bối cảnh chung của thế giới và khu vực Muốn học sinh hiểu bài sâu sắc và có cái nhìn toàn diện về nguyên nhân mất nước ta cuối thế kỉ XIX, trước tiên trước giáo viên cần làm rõ hoàn cảnh khách quan tất yếu đẩy nước ta đứng trước nguy cơ bị chủ nghĩa thực dân phương Tây đến dòm ngó và xâm lược. - Cách thức tổ chức Sau khi cho học sinh tìm hiểu về tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX, giáo viên khái quát bối cảnh chung thế giới và khu vực ngắn gọn thông qua việc trình chiếu để các em có thể so sánh - Mục đích cần đạt: Bằng kiến thức đã học, các em liên hệ với các nước châu Á cuối thế kỉ XIX và hiểu được khó khăn Việt Nam phải đối mặt: Cũng như nhiều nước ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ hay Nhật Bản, Xiêm xu thế trên cho thấy Việt Nam tất yếu trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Từ đó các em hiểu rằng chúng ta không thể tránh được họa bị đế quốc xâm lược. 2.3.2. Con đường dẫn đến mất chủ quyền dân tộc. Đối với nội dung này, giáo viên nên sử dụng bảng thống kê so sánh, đối chiếu để đạt hiệu quả nhận thức cao nhất * Bước ngoặt thời gian. Đây là một quá trình lâu dài, diễn biến phức tạp và nội dung lịch sử diễn ra nhiều sự kiện chuyển biến liên tục. Vì vậy, giáo viên cần phân chia mốc thời gian diễn ra các sự kiện chính nhằm giúp học sinh dễ dàng theo dõi quá trình Pháp đánh chiếm nước ta như thế nào? Triều đình và nhân dân đã làm gì để đối phó lại mưu đồ cướp nước của thực dân Pháp, từ đó các em hiểu được con đường đi đến mất nước không phải là tất yếu mà là một quá trình đánh mất cơ hội cứu nước của vua quan nhà Nguyễn. - Cách thức thực hiện: Giáo viên chia quá trình mất nước theo các giai đoạn như sau và yêu cầu học sinh thảo luận nhóm rồi khái quát nội dung các sự kiện chính theo 3 nội dung : quá trình thực dân Pháp,thái độ triều đình và tinh thần của nhân dân ta. Sau đó giáo viên trình chiếu hoặc đưa ra bảng thống kê đã chuẩn bị sẵn cho học sinh theo dõi đối chiếu. Thời gian Quá trình Pháp xâm chiếm Thái độ triều đình Tinh thần của nhân dân Giai đoạn 1: 1858 – 1862 Thực dân Pháp đánh Đà Nẵng và Gia Định Triều đình cùng nhân dân phối hợp chống Pháp, gây cho chúng nhiều khó khăn, thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh buộc Pháp phải chuyển sang chinh phục từng gói nhỏ. Triều đình cùng nhân dân phối hợp chống Pháp, gây cho chúng nhiều khó khăn, thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh buộc Pháp phải chuyển sang chinh phục từng gói nhỏ. Giai đoạn 2: 1862 – trước 1873 Pháp lần lượt đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ một cách dễ dàng. - Triều đình có sự phân hóa thành hai phe chủ chiến và chủ hòa - Bước đầu xa dời quần chúng nhân dân, Kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất 1862 vi phạm một phần chủ quyền dân tộc. Nhân dân tự động chống Pháp và bước đầu chống Phong kiến đầu hàng. Giai đoạn 3: 1873 - 1884 Pháp mở rộng đánh chiếm Bắc kì và thôn tính cả nước. - Triều đình bỏ rơi nhân dân ảo tưởng thu hồi chủ quyền bằng con đường thương thuyết + Kí với Pháp hiệp ước đi từ thủ để hòa sang chủ hòa vô điều kiện) + Hiệp ước 1883,1884 (đi sâu hơn một bước trên con đường đầu hàng thực dân Pháp biến Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến). Nhân dân tiếp tục dâng cao tinh thần chủ động kháng chiến chống Pháp và phong kiến đầu hàng. - Mục đích cần đạt: Trên cơ sở theo dõi, tìm tòi kiến thức sách giáo khoa, các em nắm được một cách khái quát nội dung từng bước tiến của cả 3 lực lượng: Quá trình đánh chiếm của thực dân Pháp, sự phân hóa của triều đình và tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân trong mọi hoàn cảnh, đồng thời các em sẽ thâu tóm được con đường ngắn nhất đi đến mất nước là do thái độ và chính sách bảo thủ chủ quan sai lầm của nhà Nguyễn trong việc từng bước quay lưng lại với nhân dân, đẩy nhân dân ra xa mình nhưng đồng thời lại dần bắt tay với thực dân Pháp thông qua các hiệp ước 1862, 1874,1883 và 1884 bán rẻ chủ quyền dân tộc. * Quá trình đi đến đầu hàng của triều Nguyễn. Chính là các hiệp ước bất bình đẳng mà triều đình đã lần lượt kí kết với Pháp trong giai đoạn lịch sử chống Pháp xâm lược của nhân dân ta. Cũng giống nội dung trên, giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi sách giáo khoa lập bảng thống kê các biến cố lớn đánh dấu bước đầu hàng của vua quan triều đình nhà Nguyễn . Cách làm này giúp học sinh đánh giá một cách chính xác quá trình phân hóa đi đến đầu hàng thực dân Pháp của vua quan nhà Nguyễn phát triển theo khuynh hướng nào? Chứng tỏ điều gì? Qua đó các em có thể nêu ra chính kiến nhận xét của mình về những việc làm của nhà Nguyễn. - Cách thức thực hiện: Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm rồi yêu cầu các em theo dõi nội dung hiệp ước được phân công sau đó nhận xét và đánh giá về bản hiệp ước đó. Sau khi học sinh các tổ thảo luận trình bày phần công việc của mình, giáo viên có thể dùng máy chiếu hắt hoặc trình chiếu power point phần chuẩn bị sẵn để các em theo dõi. Từ đó rút ra quá trình từng bước đi đến đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn là cả một chặng đường dài đi hết từ sai lầm này đến sai lầm khác. STT Hiệp ước Nội dung cơ bản Nhận xét 1 Nhâm Tuất 1862 - Triều đình Huế nhượng hẳn cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam kì. - Bồi thường 20 triệu quan. - Mở 3 của biển Ba Lạt, Quảng Yên và Đà Nẵng cho Pháp và Tây Ban Nha tự do ra vào buôn bán. - Đây là hiệp ước cắt đất cầu hòa đầu tiên của triều đình Huế, đi ngược lại ý chí và nguyện vọng của nhân dân - Vi phạm nghiêm trọng chủ quyền dân tộc - Tạo điều kiện cho Pháp có dã tâm xâm lược ra toàn cõi nước ta. 2 Giáp Tuất 1874 - Pháp rút quân khỏi Hà Nội và Bắc kì. - Triều đình nhà Nguyễn chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam kì là đất thuộc Pháp, công nhận Pháp có quyền đi lại buôn bán kiểm soát và điều tra tình hình ở Việt Nam. - Tính chất bán nước và cướp nước ngày càng được thể hiện rõ ràng thông qua Hiệp ước, đất đai bị mất nhiều hơn, chủ quyền dân tộc ngày càng vi phạm nghiêm trọng. - Đánh dấu quá trình đi từ thủ để hòa sang chủ hòa vô điều kiện 3 Hắc măng 1883 - Việt Nam đặt dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp, Nam kì là xứ thuộc địa, Bắc kì là đất bảo hộ, Trung kì giao cho triều đình quản lý. - Đại diện của Pháp ở Huế trực tiếp điều khiển các công việc ở Trung kì. - Mọi giao thiệp của Việt Nam với nước ngoài đều do Pháp nắm giữ - Hai hiệp ước đặt cơ sở lâu dài cho quyền đô hộ giặc Pháp ở Việt Nam. - Việt Nam chia thành 3 miền với 3 chế độ chính trị khác nhau nằm trong chính sách chia để trị của Pháp. - Đến đây, nhà nước phong kiến Việt Nam với tư cách một nhà nước độc lập có chủ quyền đã hoàn toàn sụp đổ. Nước Việt Nam hoàn toàn trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. 4 Pa tơ nốt 1884 Căn bản dựa trên Hiệp ước Hắc măng, nhưng được sửa chữa một số điều để xoa dịu dư luận và mua chuộc thêm một số phần tử phong kiến đầu hàng. - Mục đích cần đạt: Giúp học sinh đánh giá một cách chính xác quá trình phân hóa đi đến đầu hàng thực dân Pháp của vua quan nhà Nguyễn phát triển theo khuynh hướng nào? Chứng tỏ điều gì? Qua đó các em có thể nêu ra chính kiến nhận xét của mình về những việc làm của nhà Nguyễn. Học sinh lớp 11C1 tích cực thảo luận nhóm 2.3.3. Sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở nhằm phát huy tư duy phân tích, đánh giá tích cực cho học sinh. Trong qúa trình dạy, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự sách giáo khoa để học sinh dễ dàng nắm bắt theo tiến trình thời gian, song mỗi một giai đoạn chúng ta cần nhấn mạnh những điều quan trọng thông qua hệ thống câu hỏi giúp học sinh có thể tư duy khách quan theo nhận định của mình. Từ đó, học sinh nhanh chóng khắc sâu các sự kiện lịch sử cơ bản quan trọng trong mỗi giai đoạn để hình thành tri thức tổng hợp cho toàn bài. - Cách thức thực hiện: Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn lịch sử. Giai đoạn 1: 1. Tại sao Pháp chọn Đà Nẵng là nơi tấn công đầu tiên? 2. Vì sao sau khi thất bại ở chiến sự Đà Nẵng, Pháp đã quay mũi tấn công vào Gia Định? 3. Triều đình và nhân dân đã chiến đấu thế nào? Gây cho Pháp khó khăn gì? Giai đoạn 2: 1. Em đánh giá như thế nào về Hiệp ước Nhâm Tuất, về triều đình Nguyễn qua việc kí Hiệp ước? 2. Em suy nghĩ gì về hành động của Trương Định? 3. Đánh giá trách nhiệm của Phan Thanh Giản trong việc để mất 3 tỉnh miền Tây Nam kì? Giai đoạn 3: 1. Cuộc kháng chiến ở Bắc Kì lần thứ nhất có điểm gì đáng chú ý 2. Chiến thắng Cầu Giấy lần 1( 21/12/1873) ảnh hưởng đến cục diện chiến trường như thế nào? 3. Sau chiến thắng Cầu Giấy lần 2 có điểm gì khác với trận Cầu Giấy lần 1? 4. Hiệp ước Hắc măng chứng tỏ điều gì? Em hãy nhận xét, đánh giá? 5. Vì sao triều đình Nguyễn liên tiếp kí 3 hiệp bất bình đẳng với Pháp? 6. Nguyên nhân nào làm cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của quân dân ta từ 1858 – 1884 bị thất bại? - Mục đích cần đạt : Dạng câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ tích cực, do đó thường dùng cho học sinh khá giỏi nhằm giúp các em bổ trợ kiến thức cho các đối tượng yếu kém và cùng nhau đưa ra ý tưởng cùng giải quyết vấn đề đồng thời giúp các em khắc phục được những hạn chế trong việc học vẹt, bê toàn bộ sách giáo khoa để trả lời nhưng không đọng lại trong đầu các em cảm súc ấn tượng của bài học, mất đi giá trị giáo dưỡng lòng yêu nước và ý thức tự vệ trước khó khăn gặp phải. 2.3.4. Sử dụng phương tiện trực quan sinh động Việc “dạy chay” đối với bài 19, 20 sẽ rất khó trong việc định hướng cho các em thấy hoạt động chống Pháp của nhân dân ta và triều đình Nguyễn, vì vậy giáo viên kết hợp với tư liệu trực quan sinh động sẽ kích thích sự chú ý theo dõi và tạo ấn tượng trong đầu các em. - Cách thức thực hiện: Giáo viên có thể sử dụng một vài hình ảnh: tranh ảnh, lược đồ tiêu biểu minh họa trong mỗi giai đoạn, sau đó cho các em quan sát thảo luận và đưa ra nhận xét. Các sự kiên được mô phỏng cụ thể về không gian, đối tượng, phạm vi sẽ giúp học
Tài liệu đính kèm:
- skkn_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_lop_11_hieu_dung_ve.doc
- Bia skkn ca nhan 2017-2018.doc