Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng sơ đồ tư duy trong việc dạy và học môn Tin học 10
Không phải ngẫu nhiên mà sách Giáo khoa Tin học 10 được mở đầu bằng bài “Tin học là một ngành khoa học”, điều đó cho chúng ta thấy tầm quan trọng của Tin học đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, Tin học được ứng dụng trong mọi mặt đời sống, nó đóng vai trò ngày càng quan trọng, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả và năng suất lao động. Giáo dục cũng là một lĩnh vực mà Tin học đã, đang và ngày càng được khuyến khích áp dụng, điều đó cho thấy Tin học luôn là bộ môn tiên phong và hỗ trợ các bộ môn khác.
Tuy là một bộ môn đóng vai trò rất quan trọng, song trong nhà trường học sinh có phần xem nhẹ môn này vì nó không có trong kì thi Trung học phổ thông Quốc gia. Học sinh có suy nghĩ là môn này không giúp cho việc vào Đại học và Cao đẳng sau này. Điều đó đặt ra yêu cầu giáo viên cần phải giảng dạy làm sao để học sinh hứng thú với bài học và càng yêu thích bộ môn Tin học hơn.
Từ lâu, dạy học theo kiểu truyền thống như: đọc - chép, thuyết trình. được coi là một phương pháp dạy học (PPDH) để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều giáo viên trong cả nước. Phương pháp này được ví bằng hình ảnh “rót nước vào bình”, giáo viên là người “rót” những “giọt” kiến thức cần thiết vào “chiếc bình” chính là học sinh, dạy học theo phương pháp truyền thống hầu hết học sinh đều mệt mỏi khi phải ngồi lắng nghe mà không được chủ động tham gia vào bài giảng, không có cơ hội để chia sẻ, đóng góp ý kiến của mình. Ngoài ra, giáo viên không thể thu nhận được ý kiến phản hồi từ học sinh nên họ cũng không thể biết được những nội dung nào học sinh đã hiểu, chưa hiểu và những nội dung nào cần thiết phải điều chỉnh lại, do đó giáo viên khó có thể có những điều chỉnh kịp thời và hiệu quả trong hoạt động dạy học của mình.
MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU Trang 1 1.1 Lí do chọn đề tài Trang 1 1.2 Mục đích nghiên cứu: Trang 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu Trang 2 1.4 Một số phương pháp nghiên cứu được áp dụng để xây dựng đề tài: Trang 2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Trang 2 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Trang 2 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm Trang 3 2.3 Giải pháp và tổ chức thực hiện Trang 4 2.3.1 Giới thiệu sơ đồ tư duy Trang 4 2.3.2 Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Tin học 10 Trang 5 2.3.3 Các bước thiết kế một BĐTD Trang 14 2.3.4 Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD Trang 15 2.4 Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm Trang 15 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trang 16 3.1 Kết luận Trang 16 3.2 Kiến nghị Trang 16 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài Không phải ngẫu nhiên mà sách Giáo khoa Tin học 10 được mở đầu bằng bài “Tin học là một ngành khoa học”, điều đó cho chúng ta thấy tầm quan trọng của Tin học đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, Tin học được ứng dụng trong mọi mặt đời sống, nó đóng vai trò ngày càng quan trọng, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả và năng suất lao động. Giáo dục cũng là một lĩnh vực mà Tin học đã, đang và ngày càng được khuyến khích áp dụng, điều đó cho thấy Tin học luôn là bộ môn tiên phong và hỗ trợ các bộ môn khác. Tuy là một bộ môn đóng vai trò rất quan trọng, song trong nhà trường học sinh có phần xem nhẹ môn này vì nó không có trong kì thi Trung học phổ thông Quốc gia. Học sinh có suy nghĩ là môn này không giúp cho việc vào Đại học và Cao đẳng sau này. Điều đó đặt ra yêu cầu giáo viên cần phải giảng dạy làm sao để học sinh hứng thú với bài học và càng yêu thích bộ môn Tin học hơn. Từ lâu, dạy học theo kiểu truyền thống như: đọc - chép, thuyết trình... được coi là một phương pháp dạy học (PPDH) để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều giáo viên trong cả nước. Phương pháp này được ví bằng hình ảnh “rót nước vào bình”, giáo viên là người “rót” những “giọt” kiến thức cần thiết vào “chiếc bình” chính là học sinh, dạy học theo phương pháp truyền thống hầu hết học sinh đều mệt mỏi khi phải ngồi lắng nghe mà không được chủ động tham gia vào bài giảng, không có cơ hội để chia sẻ, đóng góp ý kiến của mình. Ngoài ra, giáo viên không thể thu nhận được ý kiến phản hồi từ học sinh nên họ cũng không thể biết được những nội dung nào học sinh đã hiểu, chưa hiểu và những nội dung nào cần thiết phải điều chỉnh lại, do đó giáo viên khó có thể có những điều chỉnh kịp thời và hiệu quả trong hoạt động dạy học của mình. Năm học 2017 - 2018 là năm học Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, đây là chủ trương phù hợp với tiến trình đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng sự mong đợi bấy lâu nay của nhiều giáo viên tâm huyết với giáo dục, giúp học sinh chủ động học tập và sáng tạo. Một trong những PPDH mới và hiện đại nhất được đưa vào là phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy (SĐTD). Một phương pháp dạy học mới đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng PPDH bằng sơ đồ tư duy, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của học sinh. Bước đầu đã khơi gợi trong học sinh hứng thú đối với môn học, đồng thời mang đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về bộ môn Tin học. Vậy thế nào là phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy? Cần sử dụng sơ đồ tư duy như thế nào để nâng cao chất lượng trong các giờ học Tin học? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng sơ đồ tư duy trong việc dạy và học môn Tin học 10 này. 1.2 Mục đích nghiên cứu: - Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của PPDH . - Thiết kế một số giờ dạy học về chương trình Tin học lớp 10 theo phương pháp pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của đề tài. 1.3 Đối tượng nghiên cứu Đề tài này nghiên cứu, kết luận về tính hiệu quả của phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy cho học sinh khối 10. Đây là những học sinh năm đầu tiên của bậc học Trung học phổ thông (THPT), đòi hỏi các em phải có phương pháp học mới, hiệu quả hơn, hiện dại hơn những phương pháp ghi chép truyền thống mà các em hay sử dụng ở các bậc học, các năm học trước. Việc rèn luyện cho các em phương pháp học đúng, có hiệu quả là điều hết sức cần thiết. 1.4 Một số phương pháp nghiên cứu được áp dụng để xây dựng đề tài: - Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu về giáo dục, sách giáo khoa, sách tham khảo, tạp chí giáo dục có liên quan đến đề tài. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Tiến hành dự giờ, trao đổi với các giáo viên và học sinh về giờ dạy học bằng phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy - Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm dạy học một số nội dung môn Tin học trong chương trình lớp 10 THPT để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của đề tài. - Thống kế, xử lí số liệu: Trước và sau khi thực nghiệm áp dụng phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy tác giả đều có những thống kế trên những mẫu số liệu đủ lớn, từ đó so sánh bảng số liệu để rút ra nhận xét, kết luận. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Làm sao để tạo được hứng thú cho người học? Đó là một yêu cầu quan trọng trong hoạt động dạy - học. Bởi vì dạy - học là một hoạt động phức tạp mà chất lượng, hiệu quả của hoạt động cơ bản phụ thuộc vào người học. Và để đạt được chất lượng, hiệu quả cao thì người học cần phải có: năng lực nhận thức, động cơ học tập, sự quyết tâm và hứng thú trong học tập... Theo nghiên cứu của các nhà tâm lí thì hứng thú có vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Khi làm việc có hứng thú thì dù gặp phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả cao. Trong hoạt động học tập, hứng thú có vai trò hết sức quan trọng, thực tế cho thấy hứng thú đối với các bộ môn của học sinh tỉ lệ thuận với kết quả học tập của các em. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú cho người học được xem là yêu cầu bắt buộc đối với bất cứ ai làm công tác giảng dạy, đối với bất cứ bộ môn khoa học nào. Trước tình hình đó, việc áp dụng các phương pháp dạy học mới dựa trên quan điểm phát huy tính tích cực của người học, đề cao vai trò tự học của học sinh đang là yêu cầu cấp thiết. Giáo viên cần phải có PPDH mới, vừa đem lại hiệu quả cao, vừa giúp học sinh dễ dàng chiếm lĩnh tri thức, vừa tạo được hứng thú học tập, lại vừa có tính khả thi. Để làm được điều này, đòi hỏi giáo viên cần ứng dụng những công nghệ dạy học, phương tiện kỹ thuật trong giảng dạy nhằm khắc phục những nhược điểm của các phương pháp cũ, tạo ra một chất lượng mới cho giáo dục - đào tạo. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh mà dạy học bằng sơ đồ tư duy là một trong những phương pháp dạy học tích cực, đáp ứng được những yêu cầu đó. 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm Vấn đề là làm thế nào để tạo cho người học có hứng thú học và thấy yêu thích môn Tin học? Từ đó làm thay đổi nhận thức của người học đối với bộ môn Tin học, coi Tin học là một bộ môn hết sức quan trọng như các bộ môn khác. Đây là một vấn đề khó, không có một cách thức, con đường chung cho mọi người. Sự hứng thú của người học phụ thuộc nhiều yếu tố như phương pháp giảng dạy, phong cách, ngôn ngữ, cách thức tổ chức quá trình học tập của giáo viên, chương trình. Cụ thể hơn, cơ bản vẫn là ở cách thức tổ chức giờ dạy của giáo viên, ở sự cuốn hút, hay nói cách khác là nghệ thuật của giáo viên khi lên lớp, điều này đòi hỏi cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy Tin và học Tin hiện nay. Qua công tác giảng dạy tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý xem nhẹ môn Tin học của học sinh, cụ thể là: - Coi trọng các môn cơ bản, thờ ơ với môn Tin: Trong nhận thức của học sinh thì mục đích học tập chủ yếu hiện nay là để chuẩn bị cho tương lai của chính các em học để thi đỗ Đại học, có việc làm tốt, thỏa mãn ước muốn bản thân Chính vì vậy các môn liên quan đến thi Đại học - Cao đẳng luôn được đặt lên hàng đầu và chỉ chú trọng học các môn này. Có nhiều học sinh có năng khiếu tin cũng không muốn tham gia đội tuyển Tin học, các em còn phải dành thời gian học các môn khác, điều này thật là nguy hại. Bởi vì, muốn thi Đại học - Cao đẳng trước hết các em phải hoàn thành xong chương trình của tất cả các môn học ở THPT trong đó có bộ môn Tin học, nếu không hoàn thành một bộ môn nào đó thì các em cũng không thể tốt nghiệp được. - Học chỉ lấy điểm để qua: Điều này thể hiện ở thái độ học tập cũng như thái độ làm các bài kiểm tra của học sinh, học sinh chỉ học những kiến thức cơ bản nhất để lấy đủ điểm qua môn mà không tư duy tìm tòi các kiến thức ở mức cao hơn 2.3 Giải pháp và tổ chức thực hiện 2.3.1 Giới thiệu sơ đồ tư duy: Từ trước đến nay, chúng ta thường quen dạy và học sinh cũng thường quen học bằng việc ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số. Với cách dạy học này, các em mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não (não trái) mà chưa hề sử dụng kỹ năng nào bên não phải, chức năng não phải là nơi giúp các em xử lý các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng. Trong khi đó, việc ghi nhớ hình ảnh sẽ dễ dàng và sâu sắc hơn là việc ghi nhớ kí tự. Nói cách khác, với cách học này các em mới chỉ đang chỉ sử dụng 50% khả năng bộ não của mình khi ghi nhận thông tin. Cách học này có những nhược điểm sau: - Từ khóa bị chìm khuất: Học sinh không nắm được hoặc rất mơ hồ về khái niệm trọng tâm cũng như các mối liên kết của nó với các khái niệm liên quan. - Khó nhớ nội dung: Ghi chú thông thường mang bản chất là lối trình bày tuần tự, vì chỉ có một màu đơn điệu và một chuỗi dài không có gì khác biệt, việc ghi nhớ và gợi nhớ lại nội dung là khá khó khăn. - Không kích thích não sáng tạo: Việc sử dụng quá ít chức năng của não bộ sẽ không khích thích sự sáng tạo, cản trở não tìm các mối liên kết giữa các nội dung, làm cho não có cảm giác “đã xong”. - Lãng phí thời gian: Phương pháp ghi chú theo kiểu thông thường dẫn đến ghi chú những cái không cần thiết, buộc người học phải đọc đi đọc lại những thứ không cần thiết, mất thời gian dò tìm từ khóa. Những nhược điểm này gây nên những hậu quả sau cho người học: - Mất khả năng tập trung. - Mất tự tin vào bản thân, buồn chán, thất vọng. - Đánh mất sự đam mê học hỏi. Sơ đồ tư duy (mind map): Còn gọi là “bản đồ tư” duy hay “sơ đồ ý”. Do Tony Buzan giới thiệu và phát triển vào cuối thập niên 60 của thế kỉ 20. Đây là phương pháp giúp học sinh ghi chép và ghi nhớ bài giảng bằng cách dùng các từ khóa then chốt kết hợp với các hình ảnh. Cách ghi chép này sẽ nhanh hơn, dễ nhớ và dễ ôn tập hơn. Đến giữa thập niên 70 Peter Russell đã làm việc chung với Tony, hai người đã phổ biến kĩ thuật về giản đồ ý (Sơ đồ tư duy) cho nhiều cơ quan quốc tế cũng như các trường học, học viện trên thế giới. Sơ đồ tư duy là phương pháp giản đồ ý khai thác cả hai khả năng của não trái và não phải. Đây là một kỹ thuật để nâng cao hiệu quả của việc ghi chép và ghi nhớ bằng cách sử dụng các hình vẽ. Theo cách này, chủ đề chính (từ khóa) được đặt ở vị trí trung tâm, các đối tượng liên quan được triển khai và mở rộng ra nhiều hướng, chúng có liên hệ với nhau bằng các đường nối, với cách biểu diễn như vậy bài học được ghi nhớ, hấp thụ dễ dàng và nhanh chóng hơn, quá trình tái hiện cũng nhanh hơn, dễ dàng hơn và người học cũng hứng thú hơn so với việc ghi chép bằng kí tự và các con số đơn thuần. Phương pháp lập sơ đồ tư duy có những ưu điểm sau đây: - Việc xác định ý chính sẽ rất nhanh vì ý chính sẽ được nêu bật một cách rõ dàng ở vị trí trung tâm của sơ đồ. - Quan hệ tương hỗ giữa các ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan trọng nằm càng gần với ý chính. - Liên hệ giữa các khái niệm then chốt được tiếp nhận nhanh qua thị giác. - Ôn tập và ghi nhớ nhanh chóng và hiệu quả hơn. - Thêm ý dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào sơ đồ. Hình 1: Sử dụng sơ đồ tư duy để khái quát các nội dung chính trong chương trình Tin học 10 2.3.2 Vận dụng SĐTD trong quá trình dạy học Tin học 10 a. Giáo viên sử dụng SĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học: Cũng vì đặc thù riêng của từng đối tượng học sinh mà giáo viên không chỉ đơn thuần dạy bài mới và luyện tập kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, mà bên cạnh đó, giáo viên phải thường xuyên cung cấp cho học sinh các kiến thức bổ trợ, kiến thức mở rộng và nâng cao sau mỗi bài học hay sau một mảng kiến thức, một chương mà sơ đồ tư duy chính là công cụ, là phương tiện hỗ trợ đắc lực, giúp giáo viên diễn giải và truyền đạt vấn đề thật dễ dàng, do đó đạt kết quả rất tốt trong giảng dạy. Sơ đồ tư duy có thể dùng trong dạy bài mới, kiểm tra bài cũ, trong hoạt động nhóm, trong luyện tập thực hành, ôn tập chương, giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng và ngày càng được bổ sung thêm về nội dung, làm giàu thêm “kho tư liệu”. * Dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ Chẳng hạn, kiểm tra bài “Giới thiệu về máy tính” – Tin 10, thay bằng các câu hỏi bắt học sinh phải đứng trả lời, học sinh dưới lớp khó theo dõi đầy đủ chính xác, giáo viên có thể yêu cầu học sinh điền vào sơ đồ tư duy sau: Hình 2: Dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ Với cách làm này, cả giáo viên và học sinh dưới lớp đều nhận xét tường minh được mức độ nắm bắt và ghi nhớ kiến thức của học sinh đó, đồng thời có thể dễ dàng chỉnh sửa những chỗ chưa chính xác, quan trọng hơn, cả lớp còn như được cùng “ôn bài” một lượt. * Dùng SĐTD để dạy bài mới Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ SĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện SĐTD. Qua SĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng. Ví dụ 1: Với bài “bài 4: Bài toán và thuật toán” - Môn Tin học 10, sau phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình SĐTD lên bảng. SĐTD gồm 2 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung bài học. Để có thể hoàn thiện được mô hình SĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức: + Nội dung chính của bài: học sinh sẽ dựa vào bài học để xác định các ý: Khái niệm bài toán, khái niệm thuật toán. + Tiếp tục hoàn thành các nhánh của SĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở ví như: Trước khi giải bài toán cần đọc kĩ đề bài để làm gì? (Để xác định rõ 2 thành phần Input và Output). Làm cách nào để có thể trình bày lời giải 1 bài toán? (Có 2 cách trình bày là liệt kê và sơ đồ khối). Hình 3: Dùng SĐTD để dạy bài 4- Bài toán và thuật toán Ví dụ 2: Khi học bài “bài 11: Tệp và quản lí tệp” - Môn Tin học 10, đầu giờ giáo viên cho từ khoá “Tệp và quản lí tệp” rồi yêu cầu học sinh vẽ SĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ (nhánh con cấp 2, cấp 3), sau khi các nhóm học sinh vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh. Hình 4: Dùng SĐTD để dạy bài 11- Tệp và quản lí tệp * Dùng SĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ SĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Ví dụ 1: Sau khi học xong bài “Bài 3: Giới thiệu về máy tính ” - Môn Tin học 10 học sinh phải biết được sơ đồ cấu trúc của một máy tính, chính vì vậy mỗi học sinh sẽ vẽ sơ đồ tư duy thể hiện nội dung các thành phần chính của một máy tính như trên giấy A4 hoặc vẽ vào vở của mình Hình 5: Dùng SĐTD để củng cố kiến thức của bài học Ví dụ 2 Kết thúc “Chương II: Hệ điều hành” - Môn Tin học 10 giáo viên hoặc học sinh có thể khái quát lại các nội dung chính đã học trong chương qua sơ đồ tư duy Hình 6: Học sinh dùng SĐTD để củng cố kiến thức của một chương b. Học sinh học tập độc lập, sử dụng SĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy logic: Được sử dụng SĐTD trong học tập học sinh rất thích thú và đón nhận hào hứng vì SĐTD đã giúp các em có thêm sự thư giãn, phấn khích, huy động tối đa khả năng tư duy và sáng tạo tích cực trong học tập, làm tăng ở các em tính độc lập, chủ động sáng tạo và phát triển tư duy lôgíc, giúp các em nắm được kiến thức nhanh, ghi nhớ, tổng hợp, ôn tập hữu hiệu với mọi nội dung học tập. - Học sinh tự có thể sử dụng SĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức, làm các bài tập bằng cách vẽ SĐTD trên giấy, bìa hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép. - Học sinh trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập. Ví dụ 1: Hãy biểu diễn thuật toán của bài toán tìm giá trị lớn nhất giữa 2 số nguyên a và b. Học sinh sẽ xây dựng các bước để giải quyết bài toán sau đó sử dụng sơ đồ tư duy để xây dựng cụ thể các bước trên. Hình 7: Dùng SĐTD để biểu diễn thuật toán Ví dụ 2: Nêu các chức năng của hệ điều hành? Hình 8: Dùng SĐTD nêu các chức năng của hệ điều hành Ví dụ 3: Học sinh độc lập dùng SĐTD để tự củng cố bài học Hình 9: Học sinh dùng SĐTD tự củng cố bài 16: Định dạng văn bản Ví dụ 4: Em hãy phân loại mạng máy tính? Hình 10: Dùng SĐTD phân loại mạng máy tính Ví dụ 5: Hãy biểu diễn thuật toán tính giá trị căn bậc 2 của x? Hình 11: Học sinh vẽ sơ đồ tư duy biểu diễn thuật toán trên giấy Như vậy trong trí nhớ của học sinh, không phải là những trang giấy kín mít và dày đặc những dòng chữ, mà là một bức tranh rất đẹp, rất tổng quát .Ở mỗi chi tiết của bức tranh, học sinh dễ dàng liên tưởng đến những nội dung và những những ví dụ sinh động kèm theo... Vận dụng sơ đồ tư duy vào dạy học, giáo viên và học sinh cùng làm việc tập thể một cách tích cực, sáng tạo, huy động cùng một lúc nhiều kiến thức, kết hợp việc ghi chép với kênh chữ, kênh hình theo cách riêng của từng người, không dập khuôn máy móc, dễ phát triển ý tưởng bằng cách vẽ thêm nhánh, sau mỗi bài học, giáo viên và học sinh cùng có thêm niềm vui, niềm phấn khởi vì tự mình làm ra “sản phẩm trí tuệ”. 2.3.3 Các bước thiết kế một SĐTD Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây: Bước 1: Ở giữa sơ đồ tư duy là một hình ảnh trung tâm hay một từ, một cụm từ khái quát chủ đề (gọi là từ khóa chính), vậy ta bắt đầu vẽ từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề đó, ta có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề nếu hình dung được. Bước 2: Gắn liền với hình ảnh trung tâm (hay từ khóa chính) là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề. Vì thế từ hình ảnh trung tâm chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào, hay chủ đề bao hàm những nội dung chính nào. Sau đó, ta đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm. Bước 3: Phát triển mỗi nhánh cấp 1 bằng các nhánh cấp 2, nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý trong nhánh cấp 1. Sau đó, nối các nhánh cấp 2 vào mỗi nhánh cấp 1. Bước 4: Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ từ hình ảnh trung tâm (từ khóa chính) cho đến các nhánh cấp 1, cấp 2... Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, gần gũi và dễ nhớ cho từng ý. *Lưu ý: - Tùy thuộc vào cách triển khai các ý và ý tưởng xây dựng sơ đồ tư duy mà ta chọn hướng giấy đứng hoặc ngang để thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con. - Các nhánh càng ở gần trung tâm thường là các ý chí
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_van_dung_so_do_tu_duy_trong_viec_day_v.docx