Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong môn TiếngViệt
Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở Tiểu học ( được xem là môn học công cụ).Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy cho các em biết kiến thức về ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em giữ gìn tiếng mẹ đẻ,Tiếng Việt có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho các em một số kiến thức về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao. Tiếng việt là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng mà lịch sử đã chứng minh rằng “ Tiếng Việt trở thành vũ khí của dân tộc Việt Nam”.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học.Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. Giáo viên là người theo dõi quan sát và giúp đỡ các em thực hiện mục tiêu đó.
Tuy nhiên việc giúp các em chủ động, tích cực trong học tập không đơn giản như chúng ta nghĩ. Đây quả là một công việc đòi hỏi rất nhiều công sức và tâm huyết ở người thầy. Người giáo viên phải có tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ, phải đặt mình vào vị trí của đứa trẻ xem trẻ nghĩ gì, có nhu cầu gì để từ đó có những phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động cho phù hợp, sinh động, lôi cuốn các em tham gia tìm hiểu bài học.
Ngày nay, dạy học là lấy học sinh làm trung tâm. Vậy người thầy ở đâu? Người thầy là người đi bên cạnh để định hướng, hướng dẫn, gợi mở cho các em. Để thực hiện được điều đó, người giáo viên hãy làm đúng như một ngôn từ đã được ban tặng “Người mẹ hiền thứ hai”. Người thầy hãy là người gần gũi, thân thiết, là người bạn để hiểu được nhu cầu của trẻ; là người “Mẹ” để có đủ tình yêu, trách nhiệm giúp trẻ bản lĩnh, tự tin bước vào cuộc sống. Và để làm gương, người thầy cũng cần chủ động, sáng tạo, tích cực đổi mới trong công tác giảng dạy để truyền đến các em ngọn lửa nhiệt tình, sự thích thú trong học tập.
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình dạy học. Thực tiễn giảng dạy cho thấy với cùng một nội dung, cùng một phương tiện dạy học, cùng điều kiện dạy học thậm chí cùng những mục tiêu dạy học cụ thể nhưng kết quả giờ dạy của giáo viên rất khác nhau .Điều đó phụ thuộc váo cách thức giáo viên chọn lựa , phối hợp và sử dụng các phương pháp dạy học .
Nhưng vận dụng phương pháp dạy học nào để giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt đó là nội dung bài viết hôm nay. Thông qua đề tài giúp trẻ ham học, yêu thích môn Tiếng Việt , khuyến khích trẻ thể hiện, tích cực tương tác với bạn, không bị áp đặt trong giờ học. Ngoài ra còn giúp các em hòa nhập vào một môi trường mới dễ dàng và có cơ hội phát triển một cách toàn diện .
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Lý do chọn đề tài : Giáo dục một người không phải chỉ cung cấp cho họ có kiến thức mà còn giúp họ tự trang bị kiến thức cho mình, có được cái nhìn bao quát về cuộc sống để họ có thể tự tin, chủ động hoà nhịp vào cuộc sống đang ngày càng phát triển. Đã đến lúc chúng ta có cái nhìn mới về giáo dục. Chúng ta không phải là nguời đi tìm và đưa kiến thức cho các em vì như thế các em sẽ trở nên thụ động, chây ì mà các em sẽ là người tự tìm, tự chiếm lĩnh kiến thức cho mình dưới sự hỗ trợ, giúp đỡ, dẫn dắt của người thầy – người mẹ thứ hai của các em. Chúng ta – những người thầy, người cô phải làm sao để giúp học sinh cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”, giúp các em có hứng thú trong học tập, trong việc tìm hiểu thế giới xung quanh các em. Với những lý do trên, tôi tập trung nghiên cứu là phải làm thế nào dạy các em học tốt phân môn này mà không nhàm chán . Đồng thời bồi dưỡng cho các em sự tự tin, yêu thích các môn học. Đồng thời tạo nền móng cho việc học tốt môn tiếng Việt và cả những môn học khác. Với những điều kiện đã học hỏi được ở các bạn đồng nghiệp, qua sách, báo, cùng với kinh nghiệm bản thân qua những năm giảng dạy từ lớp Một đến lớp Năm đã giúp tôi có được một số biện pháp trong việc “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong môn TiếngViệt” 1.2. Mục đích nghiên cứu : Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở Tiểu học ( được xem là môn học công cụ).Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy cho các em biết kiến thức về ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em giữ gìn tiếng mẹ đẻ,Tiếng Việt có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho các em một số kiến thức về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao. Tiếng việt là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng mà lịch sử đã chứng minh rằng “ Tiếng Việt trở thành vũ khí của dân tộc Việt Nam”. Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học.Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. Giáo viên là người theo dõi quan sát và giúp đỡ các em thực hiện mục tiêu đó. Tuy nhiên việc giúp các em chủ động, tích cực trong học tập không đơn giản như chúng ta nghĩ. Đây quả là một công việc đòi hỏi rất nhiều công sức và tâm huyết ở người thầy. Người giáo viên phải có tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ, phải đặt mình vào vị trí của đứa trẻ xem trẻ nghĩ gì, có nhu cầu gì để từ đó có những phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động cho phù hợp, sinh động, lôi cuốn các em tham gia tìm hiểu bài học. Ngày nay, dạy học là lấy học sinh làm trung tâm. Vậy người thầy ở đâu? Người thầy là người đi bên cạnh để định hướng, hướng dẫn, gợi mở cho các em. Để thực hiện được điều đó, người giáo viên hãy làm đúng như một ngôn từ đã được ban tặng “Người mẹ hiền thứ hai”. Người thầy hãy là người gần gũi, thân thiết, là người bạn để hiểu được nhu cầu của trẻ; là người “Mẹ” để có đủ tình yêu, trách nhiệm giúp trẻ bản lĩnh, tự tin bước vào cuộc sống. Và để làm gương, người thầy cũng cần chủ động, sáng tạo, tích cực đổi mới trong công tác giảng dạy để truyền đến các em ngọn lửa nhiệt tình, sự thích thú trong học tập. Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình dạy học. Thực tiễn giảng dạy cho thấy với cùng một nội dung, cùng một phương tiện dạy học, cùng điều kiện dạy học thậm chí cùng những mục tiêu dạy học cụ thể nhưng kết quả giờ dạy của giáo viên rất khác nhau .Điều đó phụ thuộc váo cách thức giáo viên chọn lựa , phối hợp và sử dụng các phương pháp dạy học . Nhưng vận dụng phương pháp dạy học nào để giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt đó là nội dung bài viết hôm nay. Thông qua đề tài giúp trẻ ham học, yêu thích môn Tiếng Việt , khuyến khích trẻ thể hiện, tích cực tương tác với bạn, không bị áp đặt trong giờ học. Ngoài ra còn giúp các em hòa nhập vào một môi trường mới dễ dàng và có cơ hội phát triển một cách toàn diện . 1.3. Đối tượng nghiên cứu : - Khi chọn đề tài này, tôi dựa vào: Tình hình thực tế của lớp học, khả năng và trình độ của bản thân, tôi chọn tập thể học sinh do tôi chủ nhiệm lớp qua các năm học từ 2013à 2021 tại trường Tiểu học Ngô Mây và Tiểu học Võ Văn Dũng TP.Quy Nhơn . 1.4. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm : Thời gian thực hiện đề tài trong các năm học từ 2013à 2021. Được thực hiện ở các khối lớp nhằm nâng cao chất lượng phát huy tính tích cực cho học sinh khi học môn Tập đọc. Điều đó đòi hỏi bản thân tôi cần có những giải pháp mới để áp dụng vào công tác giảng dạy. Trong những năm qua, tôi đã dành nhiều thời gian cho đề tài nghiên cứu này. 1.5. Phương pháp nghiên cứu : Để hoàn thành đề tài này , tôi chọn các biện pháp tiến hành sau : Nghiên cứu tài liệu : - Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục... có liên quan đến nội dung đề tài - Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo . Nghiên cứu thực tế : - Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực , các hình thức tổ chức trong tiết học . - Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung của dề tài . - Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học. - Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (Soạn giáo án đã thông qua các tiết dạy để kiểm tra tính khả thi của đề tài). 1.6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu : Đề tài này tôi đã xây dựng, áp dụng qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp tôi thấy có hiệu quả và năm học này tôi tiếp tục thực hiện. - Nghiên cứu từ tháng 9 năm 2013 - Viết nháp đề tài từ tháng 9 năm 2020 - Hoàn chỉnh đề tài tháng 2 năm 2021 II. NỘI DUNG 2.1. Những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu : Tình trạng học sinh học thụ động, nhồi nhét đã diễn ra một thời gian dài khi chưa đổi mới giáo dục. Giai đoạn đó, chúng ta vẫn còn sử dụng những phương pháp truyền thống, cách giáo dục một chiều tức là giáo viên cung cấp, truyền thụ kiến thức cho học sinh và học sinh tiếp nhận kiến thức đó. Lớp học im phăng phắc vì thầy giảng, trò lắng nghe và ghi chép. Kiến thức các em đuợc tiếp thu cũng chỉ gói gọn trong bài học mà không được mở rộng ra cuộc sống xung quanh. Những gì các em tiếp thu chỉ là kiến thức, còn mặt kĩ năng các em lại bị thiếu hụt. Đây là một yếu tố quan trọng để các em hoà nhập vào cuộc sống sau này. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận hoàn toàn những phương pháp truyền thống nhưng cũng thấy được mặt hạn chế của những phương pháp cũ đó là chưa phát huy được tính tích cực và sự hứng thú trong học tập của các em học sinh. 2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu : Trong năm học này, khi tôi nhận lớp, các đồng nghiệp bảo với tôi lớp này có nhiều em hiếu động nhưng cũng không ít em thụ động. Quả thật như vậy. Trong lớp một số em tích cực, tham gia vào các hoạt động học tập rất tốt. Tuy nhiên có một số em lại rất hiếu động, hay quậy phá trong lớp. Bên cạnh đó có nhiều em rất ngoan, ngoan đến nỗi nhút nhát, thụ động, ít tham gia các hoạt động của lớp, không dám chia sẻ, trình bày ý kiến cá nhân của mình trước mọi người. Đặc điểm của một số em trong lớp Hay nói chuyện trong giờ học Hay làm việc riêng Lơ là, không tập trung nghe cô giảng bài Nhiều em thụ động, không dám giơ tay phát biểu xây dựng bài. Khi được cô giáo mời đọc bài hay phát biểu thì nói lí nhí trong miệng, không biết trình bày như thế nào cho đúng. Ít trao đổi, chia sẻ, trình bày ý kiến cá nhân và phản hồi lại ý kiến của bạn. Lười học, ít chuẩn bị bài, xem bài trước khi đến lớp. Hiện nay, chúng ta đang chú trọng đổi mới giáo dục. Vấn đề giúp học sinh học tập tích cực, chủ động đang được phát huy. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên vẫn còn lúng túng trước việc làm thế nào để các em chủ động hơn trong học tập vì nhiều yếu tố. Một số giáo viên do lớn tuổi nên việc làm thế nào để tổ chức lớp học vui tươi, sinh động khiến họ gặp lúng túng. Bên cạnh đó cũng có thể họ đã quen với cách dạy truyền thống nên việc thay đổi phương pháp mới cũng gây nên một số khó khăn nhất định. Một số giáo viên vì một lí do nào đó mà việc chuẩn bị cho một hoạt động học trên lớp có phần chưa được chu đáo lắm. Có giáo viên đến lớp lại mang một tâm trạng không tốt sẽ gây ảnh hưởng đến không khí lớp học. Chính những điều này tác động đến các em, làm các em cảm thấy không thoải mái, bị ức chế trong các hoạt động học của mình, từ đó tính sáng tạo, tích cực của các em bị giảm dần. Xã hội đang ngày càng phát triển, nếu các em chỉ được cung cấp kiến thức theo một chiều mà không có sự rèn luyện kĩ năng thì khi bước ra xã hội, các em sẽ bị hụt chân, không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Trong quá trình đổi mới giáo dục, chúng ta cần đảm bảo học sinh được chủ động lĩnh hội kiến thức, có kĩ năng và thái độ đúng chuẩn. Với tình hình của lớp như thế, tôi thiết nghĩ mình cần đổi mới, cần tạo ra một không khí lớp học thân thiện để các em cùng hòa đồng, hỗ trợ nhau học tập và hãy đặt học sinh của mình vào trạng thái “Căng thẳng tích cực” để các em được làm việc, động não, suy nghĩ liên tục. Có như thế các em mới thể hiện được hết khả năng sáng tạo và năng lực học tập của mình. 2 .3. Mô tả , phân tích các giải pháp: Các biện pháp tiến hành , cách áp dụng và tính mới của các giải pháp : 2.3.1. Đối với thầy : Để khắc phục tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, ngành Giáo dục trong những năm gần đây đã có rất nhiều sự thay đổi. Sự thay đổi đó thể hiện ở nhiều mặt như thay đổi về chương trình giáo dục tiểu học, thay đổi về phương pháp và hình thức tổ chức, nâng cao chuẩn của giáo viên . Tuy nhiên, để giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, người có vai trò quan trọng chính là người giáo viên đứng lớp. Đối với cấp tiểu học, mỗi ngày học sinh đến trường là mỗi ngày học sinh được gặp thầy cô giáo của mình. Có bao giờ các bạn tự hỏi: có khi nào học sinh cảm thấy nhàm chán chính thầy cô của chúng không? Có thể lắm chứ nếu như mỗi ngày học sinh của chúng ta đều được nhìn, được nghe thấy một việc quen thuộc, một câu lệnh quen thuộc và làm những việc quen thuộc. Như vậy, muốn học sinh của chúng ta hứng thú, tích cực thì người giáo viên cũng phải luôn sáng tạo, đổi mới trong những giờ lên lớp. Bên cạnh đó, người giáo viên hãy là người bạn lớn của học sinh để tạo được sợi dây tình cảm bền chặt với trẻ, mang đến cho các em sự tin cậy, gần gũi. Dưới đây tôi xin trình bày một số giải pháp giúp học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. 2.3.1.1. Tìm hiểu về tâm lí, nhu cầu của trẻ : Để tạo được sự sáng tạo, chủ động, tích cực nơi trẻ thì trước hết chúng ta cần phải hiểu trẻ, xem trẻ suy nghĩ gì, mong muốn gì. Ngay ngày đầu, tôi đã gặp giáo viên của lớp cũ để trao đổi tình hình, đặc điểm của một số em trong lớp để tìm hiểu xem bản tính của các em năm học trước như thế nào, các em hiếu động kiểu nào, thụ động ra sao. Hãy tập quan sát trẻ trong giờ học, chúng ta sẽ thấy tất cả hiện lên trong từng ánh mắt, hoạt động của trẻ. Trẻ thích thú? Trẻ chán? Trẻ mệt mỏi? Trẻ đang tò mò muốn xem cô (thầy) của chúng đang chuẩn bị làm gì? Trẻ ở lứa tuổi tiểu học rất khác với người lớn chúng ta. Chúng không thể ngồi yên một chỗ suốt nhiều giờ liền và chỉ làm một việc lặp đi lặp lại. Điều đó dễ gây nên sự nhàm chán nơi trẻ. Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi vẫn còn rất hiếu động. Chúng thích được chạy nhảy, thích được trò chuyện, thích được làm một việc gì đó chứ không phải là ngồi yên một chỗ. Như vậy có thể thấy là trẻ thích được hoạt động. Vậy tại sao chúng ta không tạo nên sự ham thích nơi trẻ, sự khám phá nơi trẻ bằng việc tự tin giao quyền chủ động cho các em, tạo cho các em những hoạt động mà ở đó các em được tham gia, được khám phá. Thật thú vị biết bao khi tự mình phát hiện, tìm tòi ra một điều gì mà mình chưa biết. Trong giờ học, tôi thường xuyên đặt ra những tình huống có vấn đề, tổ chức cho các em thảo luận, hợp tác, chia sẻ để tìm hiểu vấn đề ấy. Có những vấn đề các em tự khám phá được và tôi cảm nhận được niềm vui, sự tự hào trong đôi mắt các em. Có những vấn đề khó các em cần có sự hướng dẫn và gợi mở của giáo viên nhưng khi tìm được kết quả, tôi vẫn nhận thấy sự thích thú ở các em khi các em được tự mình hoạt động để tìm kiếm tri thức. 2.3.1.2. Hãy biết lắng nghe học sinh : Ngày còn bé, khi còn học tiểu học, tôi rất ngại khi phải đứng trước mặt thầy cô của mình. Tôi ít giơ tay phát biểu vì sợ nếu nói sai thì cô sẽ la mắng, sẽ trách phạt mình. Dần dần tôi thu mình vào vỏ ốc mặc cảm, thụ động. Nhưng cô giáo lớp 4 đã làm thay đổi tôi. Cô là người nhẹ nhàng, thân thiện. Vào lớp cô hay trò chuyện với chúng tôi, hỏi thăm học trò của mình. Và khi chúng tôi nói cô đều tỏ thái độ muốn nghe. Tôi dần trở nên tự tin hơn. Tôi đã mạnh dạn phát biểu nhiều hơn trước. Và bây giờ, tôi cũng đang cố gắng thực hiện điều đó với học sinh của mình. Trước các em, tôi luôn tỏ thái độ muốn lắng nghe những điều các em muốn trình bày. Nếu được bày tỏ điều mình suy nghĩ và có người lắng nghe mình, các em sẽ dần mạnh dạn hơn, hăng hái thể hiện bản thân mình, chủ động hơn trong việc học tập. Hãy để các em được trình bày, được thể hiện bản thân mình, điều đó sẽ giúp các em phát triển kĩ năng giao tiếp của mình trong cuộc sống, mang lại cho các em sự chủ động, tự tin trong mọi việc. Bên cạnh đó, khi còn giảng dạy ở thành phố Hồ Chí Minh được học hệ thống kĩ năng phát triển câu hỏi tư duy của Intel còn giúp bản thân tôi hoàn thiện hệ thống câu hỏi đặt ra cho học sinh. Thực tế cho thấy, hệ thống câu hỏi trong quá trình học tập không chỉ là con đường dẫn đến nguồn tri thức mà học sinh cần lĩnh hội mà còn có tác dụng khuyến khích phát triển tư duy có phân tích của học sinh ở mức cao nhất. Trong những giờ học trước đây, hệ thống câu hỏi mà tôi đặt ra tuy phù hợp với các đối tượng học sinh nhưng vẫn còn hạn chế bởi mục đích khai thác câu hỏi chủ yếu để học sinh hiểu ra nội dung mà chưa chú trọng rèn các hoạt động tư duy cho các em. Khi tìm hiểu về bảng phân loại kĩ năng tư duy của Bloom, ở mỗi bài học tôi luôn xem xét và đánh giá các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa theo mức độ đi từ Biết -> Hiểu -> Vận dụng -> Phân tích -> Tổng hợp -> Đánh giá, rồi từ đó tôi soạn ra một hệ thống câu hỏi vừa đảm bảo việc khai thác nội dung bài học vừa rèn kĩ năng tư duy cho các em. Ví dụ thực tế việc Dạy bài tập đọc “ Phần thưởng ” (Sách tiếng việt 1 tập 1- Lớp 2 ) tôi đã vận dụng như sau : Hệ thống câu hỏi được đặt với HS Mục tiu Phương pháp cũ CHỦ YẾU DỰA VÀO SGK 1/ Hãy kể những việc làm tốt của bạn Na ? 2/ Theo em điều bí mật được các bạn Na bàn bạc là gì ? 3/ Em có nghĩ rằng Na xứng đáng được phần thưởng không ? Vì sao ? 4/ Khi Na được nhận phần thưởng , những ai vui mừng ? Vui mừng như thế nào ? - Chủ yếu tìm nội dung, ý nghĩa của bài đọc. Phương pháp mới 1/ Na là cô bé thế nào ? 2/ Hãy kể lại chi tiết chứng tỏ Na là cô bé tốt bụng ? 2/ Vì sao Na xứng đáng được nhận phần thưởng ? Chọn câu trả lời đúng: ß Vì Na là cô bé tốt bụng . ß Vì Na học giỏi . ß Vì Na là cô bé tốt bụng và biết giúp đỡ bạn bè . 6/ Thảo luận nhóm kể lại việc mọi người vui mừng khi Na được nhận phần thưởng . - Hiểu nội dung bài đồng thời phát triển kĩ năng tư duy của học sinh từ thấp đến cao. * Những tiêu chuẩn của một hệ thống câu hỏi tốt trong phương pháp đàm thoại: - Hệ thống câu hỏi gắn bó logic với nhau để học sinh có cơ sở quan sát, tìm tòi suy nghĩ, khám phá rút ra những điều cần học một cách có hệ thống. - Hệ thống câu hỏi phải dễ hiểu với học sinh. - Hệ thống câu hỏi là sự kết hợp của nhiều dạng câu hỏi: Câu hỏi tái hiện đơn giản những chi tiết, sự kiện; câu hỏi mở - Hệ thống câu hỏi tránh vụn vặt, tuỳ tiện, dễ dãi. - Hệ thống câu hỏi tránh thiên về tái hiện đơn thuần kiến thức của sách giáo khoa. - Giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời tránh áp đặt, mớm sẵn hoặc gò học sinh trả lời theo đúng dự định của mình. - Giáo viên cần có thái độ động viên và công nhận những câu trả lời phù hợp của học sinh đưa chúng vào nội dung của bài giảng. - Giờ học cần được tổ chức thành một cuộc hội thoại của học sinh ,giáo viên để phát triển cho học sinh các kỹ năng phỏng đoán, hỏi, giải thích, thuyết minh, thể hiện cảm nghĩ , tóm tắt , dần dần tạo cơ hội để các em đảm nhận vai trò đặt câu hỏi . Qua thực tiễn, tôi nhận thấy ngày càng tự tin hơn về kĩ năng đặt câu hỏi của mình, từ đó vận dụng linh hoạt vào thực tế giảng dạy với mong muốn luôn kích thích sự phát triển tư duy học sinh. 2.3.1.3 .Làm người bạn lớn của trẻ Chúng ta cứ nghĩ nhiệm vụ của chúng ta khi đến lớp là giảng dạy, truyền đạt đến các em tất cả những kiến thức kĩ năng cần thiết; là tạo dựng một lớp học nề nếp, trật tự. Thế thôi vẫn chưa đủ. Chúng ta cũng cần phải hiểu, ngoài việc học, khi đến lớp trẻ cũng cần được giao tiếp, được chia sẻ những tâm tư tình cảm với bạn bè và đặc biệt là với chính thầy cô giáo của chúng. Đứng trước học trò, người giáo viên thường tạo ra một khoảng cách khiến học trò không dám gần gũi để bày tỏ tình cảm, chia sẻ những tâm tư nguyện vọng với thầy cô của chúng. Không khí lớp học sẽ thật căng thẳng. Chúng ta hãy nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc. Cố gắng làm sao để tạo được một không khí thật vui, thật dễ chịu khi chúng ta và học sinh bước vào lớp. Giáo viên hãy là người quan tâm, chia sẻ với các em, lâu dần các em sẽ tin tưởng và chia sẻ với chúng ta. Mối dây tình cảm sẽ gắn bó thân thiết hơn. Điều này rất thuận lợi cho giáo viên và học sinh. Có thoải mái thì bất cứ ai mới có thể làm việc và học tập một cách hào hứng và tích cực được. 2.3.1.4 .Tạo môi trường học thân thiện với trẻ Quan tâm, chia sẻ với học sinh sẽ càng ngày càng thắt chặt tình thầy trò. Chính vì thế tôi đã vận dụng một số phương pháp dạy học theo mô hình trường Tiểu học mới VNENđó chính là tạo ra một " Môi trường học thân thiện" với trẻ. Hãy để cho trẻ được nhìn ngắm những sản phẩm do chính tay mình làm ra. Sau mỗi giờ học, đặc biệt những môn có sản phẩm như Mĩ thuật, kĩ thuật ,Tiếng việt tôi đều cho học sinh trưng bày sản phẩm ở quanh lớp. Mỗi ngày các em đều được nhìn ngắm sản phẩm của mình và của bạn nên học hỏi được những cái hay từ bạn. Bên cạnh đó, những em có sản phẩm tốt đều cảm thấy rất vui nên càng thể hiện sự cố gắng ở những bài sau. Dưới lớp, tôi cũng dành cho các em một góc sưu tầm. Tranh, ảnh, tư liệu sưu tầm cũng được các em đính vào đó như một phương pháp học tập và trang trí lớp. Ngoài ra tôi còn có sổ theo dõi về tình hình học tập, năng lực phẩm chất của từng em để nhận xét tuyên dương những em tích cực học tập , phẩm chất tốt , tham gia tốt phong trào trướng lớp trong các tiết sinh hoạt lớp . Cuối tháng em nào đạt thành tích tốt thì sẽ được tuyên dương khen thưởng bằng cách gắn hoa niềm vui vào bảng thi đua của lớp .Từ đó đã tạo cho các em động lực và tích cực học tập. U1Caùc töø trong caâu caûm Phuùc haäu Raâu toùc baïc phô Ñeïp laõo Hieàn laønh Ở lớp , tôi còn phát động phong trào " Môi trường xanh " và thực hiện việc trang trí lớp học. Do có sự thi đua nên càng em thực hiện việc này rất hào hứng. Đặc biệt là đối với phân môn tiếng việt các em có thể trình bày sản phẩm của mình như sơ đồ mạng ý nghĩa hay tả ngoại hình nhân vật . Qua đó các em rất hứng thú với việc học môn học này. Trong một lớp học, không phải em nào cũng học khá giỏi như chúng ta mong muốn. Bên cạnh những em học tốt cũng có những em học chậm. Giáo viên nên nhẹ nhàng, hướng dẫn các em để các em có sự tự tin trong học tập. Ngoài ra giáo viên cần có sự động viên, khen ngợi kịp thời khi thấy các em tiến bộ dù chỉ là một bước nhỏ. Nếu chúng ta trách phạt thì sẽ tạo nên áp lực lớn ở các em. Càng ngày các em càng thụ động và chui vào " vỏ ốc" của mình, không dám thể hiện bản thân mình, không còn sự chủ động và tích cực được nữa. Tuy nhiên, đã có khen thưởng thì cũng có phạt. Nhưng phạt như thế nào để học sinh nhận ra lỗi và dần sửa chữa được lỗi đó là điều quan trọng. Người giáo viên nên biết sử dụng các biện pháp thay thế. Ở lớp, tôi hướng dẫn để học sinh tự đề
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc.doc