Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng ĐDDH có lồng ghép di sản văn hóa giúp học sinh lớp 6 học tốt các tiết chủ đề
Trang trí mang màu sắc dân tộc rõ nét nhất, bởi nó xuất phát từ nhu cầu cuộc sống của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và như vậy nó mang tính giáo dục sâu sắc.
Vẽ trang trí cũng từ những mẫu, từ kiến thức chung nhưng người vẽ có thể suy nghĩ, tìm tòi để tạo ra bài vẽ, sản phẩm khác một phần hoặc khác hoàn toàn về hình dáng, bố cục, màu sắc Vì thế đặc điểm của trang trí là suy ngẫm - tìm tòi - sáng tạo thường xuyên liên tục để luôn có cái mới, cái đẹp không lặp lại chính mình, không giống với người khác. Trang trí tạo cho học sinh nếp nghĩ, phương pháp làm việc khoa học, tư duy sáng tạo, góp phần hình thành phẩm chất con người lao động. Trang trí gần gũi, gắn bó với cuộc sống vì nó tạo tra những sản phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày cho tất cả mọi người trong xã hội.
Đối với phân môn này giáo viên thường chọn phương pháp lồng ghép hoa văn trang trí thời Lý, hoa văn trong nghệ thuật trang trí đình, chùa hoặc nghệ thuật trang trí trên áo của đồn bào các dân tộc miền núi và đồng bằng nhưng cũng chưa khai thác triệt để việc học sinh vẽ di sản văn hóa vào vị trí nào cho hợp và chưa định hình được phương pháp đưa vào cho phù hợp. Đây cũng là mọt khó khăn cho giáo viên khi áp dụng vào bài dạy.
MỤC LỤC Thứ tự Nội dung Trang 1 I - Sơ lược lý lịch tác giả 2 2 II - Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị 2 3 III - Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến 2 Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến 2 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến 5 3. Nội dung sáng kiến 6 4 IV - Hiệu quả đạt được 13 5 V - Mức độ ảnh hưởng 15 6 VI - Kết luận 15 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT THCS Trung học cơ sở ĐDDH Đồ dùng dạy học SK Sáng kiến PHÒNG GDĐT THOẠI SƠN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Định Mỹ, ngày 23 tháng 11 năm 2018 BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng I. Sơ lược lý lịch tác giả: - Họ và tên: . Nam, nữ: .. - Ngày tháng năm sinh: .. - Nơi thường trú: .. - Đơn vị công tác: ... - Chức vụ hiện nay: .. - Trình độ chuyên môn: . - Lĩnh vực công tác:.. II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: Nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên khai thác và chế tạo các đồ dùng dạy học mới. Sự hợp tác tốt giữa giáo viên học sinh tạo điều kiện cho đề tài sớm hoàn thành. Thuận lợi: + Có phòng mỹ thuật, các dụng cụ mỹ thuật đầy đủ giúp việc lên lớp thuận tiện hơn. + Học sinh chịu khó sưu tầm và đọc trước bài học mới. + Có nhiều thông tin để nghiên cứu thông qua mạng internet. Khó khăn: Giáo viên phải nghiên cứu kỹ phần hình ảnh và nội dung nào phù hợp để đưa vào bày dạy sao cho hợp lý và đảm bảo chuẩn kiến thức kỹ năng. - Tên sáng kiến/đề tài giải pháp: “Sử dụng ĐDDH có lồng ghép di sản văn hóa giúp HS lớp 6 học tốt các tiết chủ đề” - Lĩnh vực: áp dụng vào môn Mỹ Thuật khối 6 III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến: Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: Giáo viên vẫn chưa định hình rõ lồng ghép di sản văn hóa vào vị trí nào cho hấp dẫn, thu thu hút học sinh tìm hiểu rõ hơn. Thông qua tranh ảnh sinh động giúp các em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng; từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Học sinh yếu dễ tiếp thu bài, còn các em khá giỏi có điều kiện vươn lên trong học tập, kích thích óc tò mò khám phá vẻ đẹp. Nội dung lồng ghép về di sản văn hóa chưa có trong sách giáo khoa và vẫn còn là văn bản. Do vậy muốn đạt hiệu quả trong tiết học thì giáo viên phải làm thêm đồ dùng để phục vụ giảng dạy và cũng tránh sự nhàm chán ở học sinh, nhất là phân môn vẽ theo mẫu. Sách giáo khoa hiện tại vẫn chưa thay sách và việc lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh vô bài học vẫn là công việc giáo viên tự nghiên cứu và tìm cách đưa vào bài dạy cho phù hợp. * Nguyên nhân chủ quan: -Với việc phát triển mạng Internet hiện nay thì việc tìm hiểu, sưu tầm đồ dùng dạy học có lồng ghép di sản văn hóa là rất thuận lợi và nhanh chóng nên học sinh sẽ học tập nhanh chóng các tấm gương tốt cho bản thân. - Môn mĩ thuật là môn học mới đưa vào sau này học sinh thích tìm sự sáng tạo trong các bài vẽ của mình đặc biệt là hiểu về giá trị, ý nghĩa, nội dung mà tranh mang lại. - Học vẽ các phân môn chủ yếu, cảm nhận cái đẹp ở thế giới xung quanh, tạo cảm hứng trong việc học tập. * Nguyên nhân khách quan: - Tôi tìm hiểu thực tế đa số các em là con em của nông dân khó khăn, xa trung tâm thành phố, nên các em không có cơ hội để tìm hiểu, nghiên cứu tư liệu, tài liệu, tranh ảnh hoặc các bài viết hoặc xem các buổi triển lãm tranh, ảnh do Hội Văn Học Nghệ Thuật của huyện, tỉnh tổ chức. - Giáo viên lên lớp chưa sử dụng triệt để các loại đồ dùng dạy học đối với từng phân môn, từng bài. - Nhận thức của học sinh còn xem môn mĩ thuật là môn phụ nên chưa quan tâm đến vấn đề tự ý thức học tập, chưa nhận thức được thẩm mĩ trong đời sống hằng ngày nói chung và học mĩ thuật nói riêng. - Các tiết mỹ thuật chưa được tiếp cận và tìm hiểu về đồ dùng dạy học có lồng ghép di sản văn hóa. - Học sinh còn lười trong việc rèn luyện kỹ năng vẽ, tìm hiểu tranh, ảnh, tư liệu cho bài học nên chất lượng chưa cao. * Những điểm chung: - Đồ dùng dạy học môn mỹ thuật có tranh ảnh rất ít cho nên việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học đó là yêu cầu cấp di sản văn hóa, di tích lịch sửh đối với mỗi giáo viên, đồ dùng dạy học có một tấm gương tiêu biểu là nguồn kiến thức có tác dụng giáo dục tư tưởng tính cách của học sinh, tạo hứng thú cho học sinh phát huy tính tích cực, tư duy tìm tòi cách giải quyết những nội dung trên đồ dùng rèn luyện khả năng nói, diễn đạt. Qua đồ dùng trực quan này giúp các em từng bước nâng cao nhận thức làm cho tâm hồn trở nên phong phú, phát triển tồn diện nhân cách. - Trong thói quen giảng dạy của nhiều giáo viên nói chung, giáo viên giảng dạy mỹ thuật nói riêng sau khi nghiên cứu bài, thiết kế bài soạn rồi mượn một số đồ dùng thiết bị và tiến hành giờ dạy mà xem nhẹ việc nghiên cứu và sáng tạo thêm đồ dùng dạy học. * Tìm hiểu qua khảo sát các phân môn: Môn Mỹ thuật ở THCS được chia thành 4 phân môn với những đặc điểm sau: * Phân môn “ Vẽ theo mẫu ”: Vẽ theo mẫu phải quan sát từ đầu đến kết thúc bài vẽ. Quan sát để tìm ra “kiến thức”, vì vậy kết quả của bài vẽ phụ thuộc vào phương pháp quan sát. Vẽ theo mẫu là vẽ từ mẫu thực, giáo viên khó đưa vào phần vẽ tranh, hay quan sát tranh mẫu mà chỉ có thể đưa vào phần liên hệ thực tế nói về đồ vật của Di sản văn hóa, di tích lịch sử Hồ để gợi mở vật mẫu. Với những đặc điểm đó, cần vận dụng những phương pháp sau đây khi dạy vẽ theo mẫu: quan sát, gợi mở, trực quan, liên hệ thực tiễn cuộc sống. Đây là phân môn “ khô ” nhất trong các phân môn, tương đối khó dạy do đó giáo viên ít quan tâm đến đồ dùng dạy học có lồng ghép di sản văn hóa để tìm ra những nét khác nhau giữa các bài. Về phía học sinh, đây cũng là phân môn khó nhất không thích bằng phân môn vẽ trang trí hay vẽ tranh đề tài. Trên thực tế, giáo viên khó liên hệ tranh ảnh, ĐDDH có lồng ghép di sản văn hóa vào, các phân môn khác thì có nhiều phương pháp để đưa vào bài học. * Phân môn “ Vẽ trang trí ”: Trang trí mang màu sắc dân tộc rõ nét nhất, bởi nó xuất phát từ nhu cầu cuộc sống của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và như vậy nó mang tính giáo dục sâu sắc. Vẽ trang trí cũng từ những mẫu, từ kiến thức chung nhưng người vẽ có thể suy nghĩ, tìm tòi để tạo ra bài vẽ, sản phẩm khác một phần hoặc khác hoàn toàn về hình dáng, bố cục, màu sắcVì thế đặc điểm của trang trí là suy ngẫm - tìm tòi - sáng tạo thường xuyên liên tục để luôn có cái mới, cái đẹp không lặp lại chính mình, không giống với người khác. Trang trí tạo cho học sinh nếp nghĩ, phương pháp làm việc khoa học, tư duy sáng tạo, góp phần hình thành phẩm chất con người lao động. Trang trí gần gũi, gắn bó với cuộc sống vì nó tạo tra những sản phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày cho tất cả mọi người trong xã hội. Đối với phân môn này giáo viên thường chọn phương pháp lồng ghép hoa văn trang trí thời Lý, hoa văn trong nghệ thuật trang trí đình, chùa hoặc nghệ thuật trang trí trên áo của đồn bào các dân tộc miền núi và đồng bằng nhưng cũng chưa khai thác triệt để việc học sinh vẽ di sản văn hóa vào vị trí nào cho hợp và chưa định hình được phương pháp đưa vào cho phù hợp. Đây cũng là mọt khó khăn cho giáo viên khi áp dụng vào bài dạy. Trong dạy học phân môn này cần sử dụng các phương pháp sau: trực quan, gợi mở, luyện tập. * Phân môn “ Vẽ tranh ”: Khai thác đề tài: từ đề tài chung mỗi người tìm ra cách thể hiện sâu sắc, độc đáo, tìm ra những hình tượng điển hình để có thể diễn tả được tư tưởng chủ đề, ý đồ của người vẽ, khơi gợi được sự tìm tòi và cảm nhận của người xem. Phản ánh một cách sinh động bằng sự quan sát và hiểu biết cuả người vẽ; vì thế, vẽ tranh đề tài là thể hiện sự hiểu biết nhiều mặt về cuộc sống, tự do tạo điều kiện cho người vẽ có ý thức tìm hiểu thế giới xung quanh. Giáo viên chưa xây dựng được hình ảnh các công trình kiến trúc được công nhận là di sản văn hóa trong bài vẽ tranh, khai thác triệt để hình ảnh hoạt động ở các địa phương có di sản văn hóa, công trình kiến trúc mang được công nhận di tích lịch sử, văn hóa, di tích cấp quốc giav.v..để đưa vào bài dạ. Sử dụng nhiều tranh của họa sĩ vẽ về di sản văn hóa. Khi dạy vẽ tranh cần vận dụng các phượng pháp sau: quan sát, liên hệ thực tiễn với cuộc sống. Bên cạnh sử dụng các trực quan là bài vẽ của học sinh và họa sĩ để các em nắm bắt được nội dung. * Phân môn “ Thường thức mỹ thuật ”: Thường thức mỹ thuật nâng cao trình độ văn hoá chung cho học sinh, bồi dưỡng thẩm mỹ thị giác, giáo dục tình yêu quê hương đất nước và tạo điều kiện cho các em học tập các phân môn khác có hiệu quả hơn. Giáo viên chưa sưu tầm tranh ảnh nhiều về di sản văn hóa, di tích lịch sử để học sinh tham khảo và tìm hiểu, chưa chỉ rõ sẽ vẽ hình di sản văn hóa, di tích lịch sử ở đâu. Phương pháp dạy thích hợp của phân môn này là: quan sát, vấn đáp, đàm thoại, luyện tập, liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Giáo viên cần sưu tầm, tìm hiểu nhiều tranh ảnh liên quan di sản. Lịch sử mỹ thuật gắn liền với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của một đất nước, một vùng hay một mốc thời gian. Do đó dạy và học phân môn này cần có kiến thức về các môn khoa học xã hội và có cách nhìn tổng quát, nhận xét sâu sắc, phân tích có cơ sở. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: Môn Mỹ thuật ở THCS nhằm giáo dục thẩm mỹ cho các em và tạo điều kiện cho các em sáng tạo ra cái đẹp, nâng cao khả năng nhận thức thẩm mỹ của các em. Không những thế, học Mỹ thuật còn giúp các em hiểu về cái đẹp để sống và hoạt động theo quy luật của cái đẹp và hơn thế nữa một trong những cái đẹp mà chúng ta cần giáo dục cho học sinh đó là tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Giáo viên nên lòng ghép về di sản văn hóa bằng máy vi tính, lưu trữ để bổ sung chỉnh sửa, tiến tới sử dụng giáo án tin học, điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các phần mềm vào dạy học. Công nghệ thông tin hiện nay rất phát triển, nếu chúng ta biết khai thác mạng Internet để làm đồ dùng trực quan trong giảng dạy sẽ tạo hứng thú cho học sinh ham học tập, nắm chắc kiến thức hơn ở các môn học nói chung và môn Mỹ thuật nói riêng. Việc vận dụng những tranh ảnh của về Di sản văn hóa, di tích lịch sử phù hợp với thực tế trong việc dạy học theo chương trình thay sách hiện nay. Hình ảnh ĐDDH có lồng ghép di sản sẽ là trực quan thực tế cuộc sống giúp giáo dục giáo dục học sinh về nhiều mặt khác nhau của cuộc sống và trong bài học mà giáo viên cần hướng tới. Môn Mỹ thuật được ngành Giáo dục và mọi người quan tâm, bên cạnh những thành công bước đầu đạt được việc dạy và học Mỹ thuật còn nhiều hạn chế và khó khăn. Trong dạy học, đồ dùng dạy học đóng vai trò rất quan trong trong suốt quá trình dạy học. Đối với môn Mỹ thuật, đồ dùng dạy học càng quan trọng hơn, nó làm tăng hiệu quả của tiết dạy rất nhiều và ngày nay khi mà công nghệ thông tin đã và đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, là một phần không thể thiếu trong một xã hội ngày càng hiện đại số. Trong thực tế giảng dạy hiện nay học sinh chưa quan tâm nhiều về đến việc sưu tầm tài liệu phục vụ môn học, chưa tìm hiểu nhiều về đồ dùng dạy học phục vụ cho môn học của mình. Như vậy muốn học sinh tiếp thu bài tốt, nắm vững được kiến thức bài học người giáo viên cần biết kết hợp lòng ghép tấm gương người tốt, việc tốt, di sản văn hóa có sức ảnh hưởng lớn sẽ là một trong những tấm gương điển hình để đưa bài soạn, bài giảng, bài kiểm tra, các sản phẩm đồ dùng dạy học có như vậy sẽ nâng tầm bài dạy đảm bảo chất lượng rất nhiều Xuất phát từ những nhu cầu trên tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu, để đạt được những yêu cầu trên trong việc dạy và học giáo viên cần phải sử dụng triệt để các loại đồ dùng đã có, tự làm hoặc sưu tầm.Việc sưu tầm và sử dụng các ĐDDH có lồng ghép di sản trong dạy học môn Mỹ thuật là một vấn đề cần thiết để giúp các em học sinh có ý thức và trách nhiệm với bài vẽ của mình. Thông qua hình ảnh sống động người thật, việc thật trong ĐDDH sẽ kích thích học sinh hưng phấn trong học tập. Người giáo viên có đầu tư khai thác tranh ảnh trên mạng thì kiến thức mới được mở rộng để áp dụng vào việc dạy có hiệu quả hơn, giúp các em yêu môn học hơn. Theo yêu cầu chung, một tiết dạy tốt là phải có sử dụng đồ dùng dạy học.Từ đồ dùng trực quan đó học sinh thấy thích thú, tạo cho mình một cách học riêng. 3. Nội dung sáng kiến: Từ những vấn đề cơ bản đó thì đối với các phân môn, phương pháp giảng dạy phù hợp là phương pháp quan sát và phương pháp liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Ngoài ra là sự kết hợp các phương pháp dạy học như gợi mở, vấn đáp, luyện tập.vv... Đối với mỹ thuật thì liên hệ với thực tiễn cuộc sống là một điều hết sức quan trọng, đảm bảo cho việc tìm và lựa chọn ĐDDH có lồng ghép di sản được sâu sắc hơn, nêu rõ trọng tâm hơn. 3.1) Tính thuyết phục của đề tài: a.Tìm hiểu một số phương pháp: Dạy Mỹ thuật cũng là dạy học, vì Mỹ thuật cũng là một môn học ở trường phổ thông. Do vậy, dạy Mỹ thuật cũng phải tuân theo những phương pháp chung và có phương pháp riêng. Đối với môn học Mỹ thuật có thể kể đến một số phương pháp thường vận dụng sau: - Phương pháp quan sát. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp vấn đáp. - Phương pháp gợi mở. - Phương pháp luyện tập. - Phương pháp liên hệ thực tiễn với cuộc sống. Đối với môn học Mỹ thuật đó là môn học trực quan, do vậy dạy Mỹ thuật ở trường THCS dạy trên đồ dùng dạy học là chủ yếu. Đề tài này nhằm nghiên cứu về sử dụng đồ dùng dạy học trong môn Mỹ thuật nên phương pháp trực quan sẽ được phân tích sâu hơn. b. Trực quan trong dạy học Mỹ thuật: Mỹ thuật là môn học trực quan. Đối tượng của môn Mỹ thuật thường là những gì ta có thể nhìn thấy, sờ được - có hình, khối, có đậm nhạt, có màu sắc, ở xung quanh ta, gần gũi và quen thuộc. Dạy học nói chung và dạy học Mỹ thuật nói riêng bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao. Riêng với Mỹ thuật, tất cả các loại bài học đều phải sử dụng đồ dùng dạy học. Dạy Mỹ thuật dạy trên đồ dùng dạy học. Do vậy đồ dùng dạy học là nội dung, kiến thức của bài học. Đồ dùng dạy học còn phản ánh mức độ kiến thức của bài học , trình độ của học sinh. c. Phương pháp trực quan trong dạy học Mỹ thuật: Hình thức đồ dùng dạy học cần có kích thước vừa phải, dễ quan sát, có trọng tâm, đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh. Trình bày đồ dùng dạy học cần rõ ràng, khoa học, kết hợp giữa trình bày và lý thuyết giới thiệu trực quan đúng lúc, sao cho lời nói hấp dẫn và minh hoạ đẹp hoà quyện làm một, tạo điều kiện cho học sinh nhận thức nhanh, nhớ lâu. Nói đến phương pháp trực quan tức là đề cập đến sao cho học sinh thấy được ngay, thấy một cách rõ ràng, cụ thể và hiểu nhanh, nhớ lâu, đồng thời có hứng thú học tập, dù là những khái niệm như cân đối, hài hoà hay những gì ẩn chứa trong bố cục,nét vẽ, màu sắcmà nghệ sĩ muốn nói. Như vậy, phương pháp trực quan yêu cầu, giáo viên dạy Mỹ thuật ở góc độ nhận thức cụ thể như sau: Về nhận thức: giáo viên phải coi trực quan và phương pháp trực quan là cần thiết, là nội dung bài dạy. Về chuẩn bị: chủ động nghiên cứu bài dạy, tự tìm và thiết kế đồ dùng dạy học sát với nội dung. Về phương pháp: sử dụng trực quan giáo viên cần lưu ý: Phân loại đồ dùng sao cho hợp với nội dung, thích hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của học tập và ý đồ của giáo viên. d.Giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật: d.1.Các loại giáo cụ trực quan: Giáo cụ trực quan môn Mỹ thuật là tất cả những phương tiện sử dụng trong tiết dạy môn Mỹ thuật. Có thể kể đến các loại đồ dùng (phương tiện) đó là: - Vật mẫu: nhiều chất liệu, hình dáng phong phú (có thể tự làm) như: hoa quả, các khối hộp, cái phích, ấm tích, khối cầu, tượng - Hình mẫu: dưới dạng vật thật hoặc tự vẽ như: chén đĩa, khăn, gạch hoa - Mô hình: kích thước vừa phải, tiện lợi như: mô hình trại - Tranh ảnh: + Tranh nguyên bản, phiên bản: tranh thiếu địa danh, tranh hoạ sĩ, tranh dân gian, tranh có họa tiết thuộc di sản văn hóa địa phương, di tích lịch sử + Ảnh chụp theo đề tài, hoặc sưu tầm qua sách báo - Sơ đồ: sơ đồ có minh hoạ các bước vẽ. - Sách giáo khoa, học sinh có thể tham khảo thêm sách thực hành Mỹ thuật. - Bài vẽ của học sinh năm trước. - Minh hoạ bảng. - Đồ dùng dạy học: phấn, thước kẽ, bút chì, giấy vẽ - Phương tiện hiện đại: máy chiếu, giáo án điện tử, laptop hỗ trợ giảng dạy d.2.Vị trí, vai trò của giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật: Mỹ thuật là môn học phải có giáo cụ trực quan vì Mỹ thuật là môn rèn luyện bồi dưỡng và phát triển khả năng cảm thụ thị giác nên Mỹ thuật thông qua trực quan dạy cho học sinh quan sát, so sánh đối chiếu, phân tích nhằm lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo. Giáo cụ trực quan nhằm mục đích cụ thể hoá bài giảng , tăng thêm hiểu biết cho học sinh, giúp học sinh thu nhận thông tin về các sự vật, hiện tượng một cách đầy đủ và chính xác. Giáo cụ trực quan nhằm kích thích tò mò và chăm chú, theo dõi bài giảng, gợi ý cho học sinh hoặc để giải thích chứng minh cho một luận cứ, quy tắc nào đó. Mặc dù giáo cụ trực quan hết sức quan trọng nhưng cũng hết sức nguy hiểm vì tâm lý chung của học sinh là hay bắt chước. Nhờ giáo cụ trực quan để thấy được cái hay, cái đẹp, tránh được cái chưa đạt, thấy rõ mục tiêu bài học, khắc sâu kiến thức hơn nữa, thế nhưng phải biết sử dụng hợp lý, đúng lúc. Giáo cụ trực quan là phương tiện giúp trẻ tiếp thu nhận thức tốt lý thuyết cũng như hướng dẫn thực hành, từ đố gây cho các em niềm say mê hứng thú trong cái hay, cái đẹp, hình thành thị hiếu tốt, đồng thời giúp các em học tốt các môn khác. 3.2) Một số biện pháp lồng ghép nhằm giúp các em có ý thức hơn: Một số vật mẫu vẫn chưa đầy đủ giáo viên tự tìm kiếm hoặc phải chuẩn bị để dạy học. Phần lớn giáo viên đều cho rằng: giáo cụ trực quan của môn Mỹ thuật hiện nay là chưa đầy đủ, phần lớn đều do giáo viên tự thiết kế thêm, Bên cạnh đó giáo viên đã ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Mỹ thuật và mang lại hiệu quả cao, gây hứng thú cho học sinh đặc biệt là trong các tiết học phân môn thường thức Mỹ thuật. Với cách dạy này giáo viên có thể sử dụng nhiều hình ảnh về di sản văn hóa, di tích lịch sử để lồng ghép vào bài học và củng cố kiến thức; giới thiệu nhiều trang web để học sinh tự tìm hiểu thêm. Như vậy khó khăn lớn nhất của giáo viên giảng dạy môn Mỹ thuật ở trường THCS Định Mỹ hiện nay là thiếu giáo cụ trực quan, nhưng nếu tự làm thêm thì không đủ kinh phí. 3.3) Một số giải pháp chung khi sử dụng ĐDDH: Qua tìm hiểu về cơ sở lý luận, tìm hiểu thực tiễn về việc sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS Định Mỹ tôi xin đưa ra một số giải pháp sau: Khi học sinh làm bài giáo viên cần xem kĩ những trực quan nào cần để lại để học sinh xem, những trực quan nào nên cất đi. Đối với bài Vẽ theo mẫu, giáo viên nên sưu tầm những đồ vật có liên quan di sản văn hóa, di tích lịch sử hay sử dụng thông qua tranh ảnh sưu tầm. Cách sử dụng giáo cụ trực quan: có thể treo tranh theo từng bước giảng, giảng nội dung nào treo tranh đó. Hoặc treo tất cả các tranh một lần rồi phân tích từng tranh. Giáo viên cần nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo cụ trực quan để từ đó có kế hoạch soạn bài dạy và chuẩn bị trực quan chu đáo, hiệu quả. Cần phân loại trực quan cho phù hợp với nội dung, thời gian bài dạy. Kích cỡ trực quan tương đối, rõ ràng, đẹp, đảm bảo nội dung để thu hút tầm nhìn. Trình bày phải rõ ràng, khoa học, kết hợp với minh hoạ bảng, tạo điều kiện cho học sinh nhận thức nhanh, nhớ lâu. 3.4) Một số phương pháp lồng ghép di sản văn hóa khi thiết kế giáo cụ trực quan cho các phân môn trong dạy học Mỹ thuật: a) Phân môn “ Vẽ theo mẫu ”: Bài “ Mẫu có hai đồ vật ”, giáo viên có thể sử dụng các mẫu như: các loại nhạc cụ dân tộc: song lang, đàn tranh, đàn bầu, trống nếu không có mẫu vật thực tế giáo viên có thể in hình ra để học sinh xem. Việc sử dụng nhiều vật mẫu giúp giáo viên dễ liện hệ di sản văn hóa hơn. Ví dụ: với song lang, các loại đàn chúng ta có thể cho học sinh mở bài bằng việc chơi trò chơi đoán đồ vật hoặc tên loại hình nghệ thuật thấy trong tranh, học sinh ghi lên bảng ghi nhận những đồ vật hoặc loại hình nghệ thuật nhìn thấy trên tranh ảnh mà giáo viên treo lên bả
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_dddh_co_long_ghep_di_san_van_h.doc