Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn Trung học Phổ thông

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn Trung học Phổ thông

Cơ sở lý luận của vấn đề:

 Như chúng ta đã biết, tác phẩm văn học dân gian khác rất nhiều và rất xa những tác phẩm văn học viết. Nó không phải là nghệ thuật ngôn từ hoàn toàn độc lập và thuần chất như văn học viết. Trong đời sống tinh thần của nhân dân, văn học dân gian bao giờ cũng tồn tại ở dạng kết hợp nhiều yếu tố nghệ thuật và phi nghệ thuật khác nhau với yếu tố động tác mang tính chất vũ và cả những động tác lao động sinh hoạt thông thường, có yếu tố âm thanh mang tính chất nhạc và những âm thanh thông thường không có nhạc tính. Do sự kết hợp phức tạp như vậy nên sáng tác dân gian không mang tính chất ổn định và bền vững và việc nắm bắt chúng để nghiên cứu, giảng dạy là điều hết sức khó khăn.

 Ở những tác phẩm mà từng đơn vị tác phẩm không có tên riêng như tục ngữ, câu đố, ca dao thường quy mô của tác phẩm rất nhỏ do đó số lượng trong mỗi tác phẩm rất nhiều. Vì vậy việc chú ý xem xét kĩ những tác phẩm tiêu biểu mang tính chất điển hình là rất cần thiết và quan trọng trong quá trình giảng dạy.

 Trong lĩnh vực giảng dạy văn học dân gian có nhiều vấn đề đạt ra có thể chỉ với một thể loại , tiểu loại thậm chí là tác phẩm cụ thể. Chẳng hạn vấn đề phân tích khai thác nhân vật trữ tình chủ yếu chỉ đặt ra đối với ca dao và phần nào đó đối với bộ phận về tâm tình , vấn đề phân tích những xung đột gia đình mang ý nghĩa xã hội chủ yếu chỉ đặt ra đối với thể loại cổ tích. Vì thế mỗi thể loại cần có phương pháp giảng dạy khác nhau. Việc giảng dạy đối với từng tác phẩm văn học dân gian cụ thể đòi hỏi phải dựa vào những cơ sở và điều kiện khác nhau, trong đó có hai vấn đề quan trọng:

1. Phải dựa vào lí luận tổng quát về phương pháp nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian

2. Phải dựa vào kết quả thành tựu nghiên cứu cơ bản về tác phẩm hoặc lĩnh vực văn học dân gian cụ thể đó.

 Ca dao nói chung và ca dao cổ nói riêng đều có đặc điểm chung là giản dị, dễ hiểu và đều khó giảng. Sự dễ hiểu của ca dao chẳng những không phải là điều kiện thuận lợi mà trái lại , còn chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự khó khăn trong giảng dạy ca dao.

 Khó khăn lớn nhất ở đây là làm thế nào để đem lại cho học sinh những nhận thức mới, cảm thụ mới về những bài ca dao giản dị quen thuộc, dễ hiểu.

Hiện tại ở các trường phổ thông có khá nhiều cách giảng dạy ca dao khác nhau dẫn đến cách cảm hiểu về ca dao đôi khi thiếu thống nhất.

Phổ biến nhất có lẽ là cách diễn nôm ca dao. Người giảng nói lại nội dung trực tiếp của các câu ca dao bằng lời lẽ thông thường nôm na để học sinh “ dễ hiểu”.Cách giảng này thường làm cho người dạy và người học không hào hứng vì nội dung học tập không có gì mới mẻ. Thực chất của cách dạy này là đơn giản hóa ca dao nên không đem lại hiệu quả.

 

doc 32 trang cuonglanz2a 9863
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn Trung học Phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC 
STT 
 Nội dung 
 Trang 
1
2
3
4
5
6
 Mục lục 
 Đặt vấn đề 
 Giải quyết vấn đề 
- Cơ sở lý luận của vấn đề
- Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề 
- Thực trạng học sinh học tập bộ môn 
 - Hiệu quả của SKKN
 Thực hành soạn giảng
 Kết quả áp dụng SKKN
 Kết luận 
1
2 -> 3
3 
3-> 5
5-> 15
15->16
16
17-> 23
24
25
 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Văn học Việt Nam được hình thành từ hai bộ phận lớn đó là Văn học dân gian và văn học viết. Trong chương trình Ngữ văn THPT bộ phận văn học dân gian chiếm dung lượng khá lớn với nhiều thể loại phong phú. Một trong những thể loại học sinh khá yêu thích nhưng cũng khó nắm bắt đó là ca dao. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra đối với giáo viên Ngữ văn : 
 Giảng văn tác phẩm văn học dân gian có khác với giảng văn tác phẩm văn học viết hay không? Trong những tác phẩm được gọi là văn học dân gian có thực sự có phần “ văn” để giảng như văn học viết hay không? Giảng văn ca dao ngoài phần lời có nên đề cập đến phần nhạc và các yếu tố khác có liên quan hay không? 
 Ca dao là tiếng nói của tình cảm. Đến với ca dao ta như bắt gặp những tâm trạng tình cảm , rung động sâu xa tinh tế của chính lòng mình. Đối với người giáo viên Ngữ văn làm thế nào để giúp học sinh thâm nhập được vào thế giới nội tâm phức tạp ấy của con người là việc làm hết sức khó khăn. 
 Vì vậy việc đi tìm phương pháp giảng dạy giúp học sinh cảm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp thẩm mĩ của ca dao là điều cần thiết 
 Để giờ học có hiệu quả, người giáo viên cần có thiết kế bài học tốt không chỉ chú trọng khâu kiến thức bài học mà còn chú ý đến cách tổ chức cho học sinh học tập, sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp đối tượng trong đó cần áp dụng các kĩ thuật dạy học mới phù hợp với từng kiểu bài để phát huy khả năng tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh trong chiếm lĩnh kiến thức. Đặc biệt chú trọng đến phương pháp giảng dạy phù hợp thể loại nhằm đạt hiệu quả cao trong học tập là yếu tố không thể thiếu. 
 Xuất phát từ thực tế giảng dạy ở trường trung học phổ thông vùng cao, điều kiện học tập của học sinh còn nhiều khó khăn nhất là khă năng tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn chế. Điều mà mỗi giáo viên trăn trở là làm thế nào để có thể truyền thụ kiến thức, kĩ năng cơ bản tới học sinh, sử dụng phương pháp dạy học nào, áp dụng các kĩ thuật dạy học mới ra sao để có thể phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm? 
Từ lí do trên tôi lựa chọn đề tài “ Phương pháp giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn THPT”. 
 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
 1. Cơ sở lý luận của vấn đề: 
 Như chúng ta đã biết, tác phẩm văn học dân gian khác rất nhiều và rất xa những tác phẩm văn học viết. Nó không phải là nghệ thuật ngôn từ hoàn toàn độc lập và thuần chất như văn học viết. Trong đời sống tinh thần của nhân dân, văn học dân gian bao giờ cũng tồn tại ở dạng kết hợp nhiều yếu tố nghệ thuật và phi nghệ thuật khác nhau với yếu tố động tác mang tính chất vũ và cả những động tác lao động sinh hoạt thông thường, có yếu tố âm thanh mang tính chất nhạc và những âm thanh thông thường không có nhạc tính. Do sự kết hợp phức tạp như vậy nên sáng tác dân gian không mang tính chất ổn định và bền vững và việc nắm bắt chúng để nghiên cứu, giảng dạy là điều hết sức khó khăn. 
 Ở những tác phẩm mà từng đơn vị tác phẩm không có tên riêng như tục ngữ, câu đố, ca dao thường quy mô của tác phẩm rất nhỏ do đó số lượng trong mỗi tác phẩm rất nhiều. Vì vậy việc chú ý xem xét kĩ những tác phẩm tiêu biểu mang tính chất điển hình là rất cần thiết và quan trọng trong quá trình giảng dạy. 
 Trong lĩnh vực giảng dạy văn học dân gian có nhiều vấn đề đạt ra có thể chỉ với một thể loại , tiểu loại thậm chí là tác phẩm cụ thể. Chẳng hạn vấn đề phân tích khai thác nhân vật trữ tình chủ yếu chỉ đặt ra đối với ca dao và phần nào đó đối với bộ phận về tâm tình , vấn đề phân tích những xung đột gia đình mang ý nghĩa xã hội chủ yếu chỉ đặt ra đối với thể loại cổ tích. Vì thế mỗi thể loại cần có phương pháp giảng dạy khác nhau. Việc giảng dạy đối với từng tác phẩm văn học dân gian cụ thể đòi hỏi phải dựa vào những cơ sở và điều kiện khác nhau, trong đó có hai vấn đề quan trọng:
1. Phải dựa vào lí luận tổng quát về phương pháp nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian
2. Phải dựa vào kết quả thành tựu nghiên cứu cơ bản về tác phẩm hoặc lĩnh vực văn học dân gian cụ thể đó. 
 Ca dao nói chung và ca dao cổ nói riêng đều có đặc điểm chung là giản dị, dễ hiểu và đều khó giảng. Sự dễ hiểu của ca dao chẳng những không phải là điều kiện thuận lợi mà trái lại , còn chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự khó khăn trong giảng dạy ca dao.
 Khó khăn lớn nhất ở đây là làm thế nào để đem lại cho học sinh những nhận thức mới, cảm thụ mới về những bài ca dao giản dị quen thuộc, dễ hiểu. 
Hiện tại ở các trường phổ thông có khá nhiều cách giảng dạy ca dao khác nhau dẫn đến cách cảm hiểu về ca dao đôi khi thiếu thống nhất. 
Phổ biến nhất có lẽ là cách diễn nôm ca dao. Người giảng nói lại nội dung trực tiếp của các câu ca dao bằng lời lẽ thông thường nôm na để học sinh “ dễ hiểu”.Cách giảng này thường làm cho người dạy và người học không hào hứng vì nội dung học tập không có gì mới mẻ. Thực chất của cách dạy này là đơn giản hóa ca dao nên không đem lại hiệu quả. 
 Có người lại phức tạp hóa sự giản dị dễ hiểu của ca dao, lôi cuốn học sinh bằng những lời lẽ văn hoa bóng bẩy. Cách này thường làm cho người học và người dạy cảm thấy giờ học hấp dẫn sinh động song thực ra cũng không đem lại cho học sinh những cảm xúc thực sự.
 Có người lấy bài ca dao phải giảng làm điểm xuất phát để từ đó liên hệ liên tưởng đẫn dắt học sinh tới những câu thơ tứ thơ trong những tác phẩm văn học khác theo sở trường và cảm hứng tự do của người giảng. Đó là cách giảng lệch lạc cần khắc phục.
Có một số giáo viên chọn trong bài ca dao phải giảng một số điểm nào đó mà họ thấy cần thiết cho học sinh và mình đủ sức giảng được, không đơn giản hóa 
 hay phức tạp hóa bài ca dao một cách không cần thiết. Giáo viên có thể cho học sinh tập đọc bài ca dao hoặc hướng dẫn học sinh thực hành, giải quyết những câu hỏi đã cho, cung cấp thêm cho các em dị bản, những câu ca dao hay có quan hệ mật thiết với bài ca dao đang học. Đây là cách làm của những giáo viên có trình độ , có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề đó cũng là cách dạy có tính khả thi. 
 Trong quá trình giảng dạy ca dao việc cảm thụ, nhận thức còn nhiều khó khăn. Đến nay chúng ta chưa rõ thời gian ra đời của từng bài , từng câu ca dao mà ngay đến cả hoàn cảnh phát sinh phát triển chung của mỗi loại mỗi hình thức ca dao truyền thống của nhân dân cũng chưa được xác định một cách chắc chắn.Hơn nữa cả những bài ca dao được in trên sách giáo khoa văn học dân gian trong nhà trường cũng chưa phản ánh đầy đủ. Với những khó khăn đó, ca dao được sưu tầm và xuất bản bị tách khỏi thời gian và không gian sinh thành tồn tại của nó khiến người học khó tìm hiểu và nhận thức. 
 Việc xác định tác giả ban đầu của mỗi bài ca dao và cái gọi là tác giả tập thể vô danh cũng không được chỉ ra cụ thể. Ca dao có đặc điểm chung là ngắn từ hai đến bốn câu là phổ biến lại bị tách ra như hiện tương riêng lẻ đơn độc khiến người tìm hiểu, giảng dạy không có căn cứ, điểm tựa cho hoạt động tư duy. 
 Muốn có cơ sở tối thiểu để hiểu bài ca dao, ngoài việc đặt nó vào trong cái khung thời gian , không gian và thể loại nhất định nào đó. Mỗi bài ca dao đều là tiếng nói là sản phẩm của nhân dân sinh thành trong hoàn cảnh nhất định. Nhưng do quy luật sinh thành tồn tại riêng của chúng mỗi tác phẩm văn học dân gian không nhất thành bất biến cho nên không thể gắn chúng vào thời điểm lịch sử nhất định như đối với tác phẩm văn học viết . Việc đi tìm cái khung chung về không gian , thời gian, một bối cảnh lịch sử sinh thành của tác phẩm văn học dân gian là cần thiết
 2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 
 a. Đối với khâu chuẩn bị: 
* Về phía giáo viên:
 Điều tra, quan sát, phân loại đối tượng học sinh chia thành các nhóm học tập. Nắm chắc phương pháp giảng dạy ca dao với các bước cụ thể khi tiếp cận và đọc - hiểu ca dao. Trang bị kiến thức về ca dao, sống với tác phẩm. Xem xét bài ca dao ở nhiều góc độ để hiểu thấu đáo giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật của ca dao.
 Sử dụng phương pháp dạy học tích cực, áp dụng kĩ thuật mới vào giảng dạy. Phân nhóm cho học sinh thảo luận, nêu câu hỏi phát vấn.
 Những kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy 
 Những tài liệu liên quan đến phương pháp dạy học.
 Đối chứng qua giờ dạy ở trường, có khảo sát chất lượng, đánh giá rút kinh nghiệm giờ dạy.
* Về phía học sinh: 
 Học sinh chuẩn bị bài ( soạn văn) chu đáo tiếp cận tác phẩm văn học dân gian ( ca dao) bằng việc đọc , đọc diễn cảm , học thuộc lòng bài ca dao.
 Soạn bài theo hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa và sự hướng dẫn của giáo viên
Phát hiện cái hay cái đẹp của ca dao về nội dung , nghệ thuật thông qua các tín hiệu ngôn ngữ để tìm hiểu nội dung biểu đạt của ca dao 
Sưu tầm các bài ca dao có chung đề tài , cách mở đầu theo mô típ quen thuộc 
b. Đối với hoạt động dạy học trên lớp:
 Để giờ học đạt được hiệu quả trước khi vào bài mới giáo viên chú ý khâu khởi động để tạo không khí phù hợp với bài học: Có thể hát điệu cò lả mang nội dung tương đồng với tác phẩm chuẩn bị học.
 Đối với phần đọc văn bản cần đọc đúng giọng điệu , đọc sáng tạo , đọc thuộc lòng bài ca dao giúp học sinh bước đầu tiếp cận văn bản. 
 Trong quá trình giảng dạy cần tuân thủ các bước tiếp cận đọc- hiểu phân tích bài ca dao. 
 Trong quá trình nhận thức bài ca dao có ba loại công việc : xác định thời gian, không gian và thể loại của tác phẩm đều quan trọng, có tác dụng bổ sung hỗ trợ nhau không thể coi nhẹ hoặc bỏ qua công việc nào. Trong thực tế rất nhiều bài ca dao chưa xác định được thời gian và địa bàn gốc của nó vì vậy cần phải phân loại ca dao theo các quan điểm lịch đại và theo các tiêu chí phương thức biểu diễn, phương thức sáng tác. 
 Khi xem xét thể loại của bài ca dao không thể không chú tới hình thức biểu diễn ( diễn xướng) của nó. Ở đây cần thấy sự thống nhất và độc lập tương đối của dân ca và ca dao. 
 Ví dụ: Ru con là loại dân ca phổ biến miền nào và dân tộc nào cũng có. Trong nhân dân thành phần nào , lứa tuổi nòa cũng có thể sử dụng nhưng nhiều nhất và thường xuyên là là tuổi nhỏ và tuổi già trong đó phụ nữ giữ vai trò quan trong nhất. Dân ca ru con trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu ru con của nhân dân. Tất cả các yếu tố nghệ thuật khác nhau của nó ( lời, nhạc, động tác) đều trước hết nhằm tạo ra trạng thái êm ái, đều đều để đưa trẻ vào giấc ngủ. Ngoài chức năng ban đầu ấy , dân ca ru con còn có thêm chức năng giáo huấn, giải trí , phô diễn tâm tình. Vì thế nhạc điệu của dân ca rất đơn giản ai cũng hát được nhưng phần lời của nó lại vô cùng phức tạp và da dạng. Cho nên dân ca ru con và ca dao ru con( Phần lời của dân ca ru con) vừa thống nhất vừa khác nhau điều đó phản ánh rõ tính chất độc lập tương đối của thành phần nghệ thuật ngôn từ trong dân ca. 
 Như vậy khi xem xét thể loại của bài ca dao cần xem xét phương diện “ ca” của nó tức là xem nó đã được sử dụng trong hình thức sinh hoạt dân ca nào, trong đó loại dân ca gốc của nó là gì? Xem xét phương diện “thơ” của nó tức là dựa vào phần lời của bài ca dao mà xem xét đặc điểm nội dung, nghệ thuật. 
 Việc xác định tác giả, nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình cũng là một mảng công việc quan trọng trong quá trình tìm hiểu , giảng dạy ca dao. Trong ca dao tác giả và nhân vật trữ tình là thống nhất vì đó là tiếng nói tâm tình trực tiếp của người lao động. Ở những bài ca dao mà nhân vật trữ tình là người phụ nữ ( Người vợ lẽ, vợ lính, nàng dâu) chắc chắn tác giả ban đầu của chúng cũng là những người phụ nữ có cảnh ngộ và tâm trạng đúng như cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật trữ tình mà bài ca dao phản ánh. 
 -Thân em như tấm lụa đào 
 Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai? 
 - Thân em như con hạc đầu đình
 Muốn bay không cất nổi mình mà bay. 
Những câu ca dao như vậy chắc chắn là sự tự bộc lộ của tác giả do đó tác giả và nhân vật trữ tình chỉ là một. 
 Trong ca dao cổ nhất là bộ phận ca dao trữ tình việc xác định nhân vật trữ tình gắn liền với xác định đối tượng trữ tình của nó. Nhân vật trữ tình chính là chủ thể bộc lộ tình cảm còn đối tượng trữ tình chính là chủ thể tiếp nhận tình cảm. Hai loại chủ thể này đồng thời là đối tượng trao đổi tình cảm của nhau. Trong ca dao đối đáp nam nữ hai loại nhân vật này thường xuyên đổi vị trí cho nhau. Khi bên này là chủ thể bộc lộ thì bên kia là chủ thể tiếp nhận và ngược lại:
 - Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
 Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? 
 - Đan sàng thiếp cũng xin vâng
 Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng ? 
Ở câu trên nhân vật là chàng trai( Anh) đối tượng trữ tình là cô gái( Nàng). Còn ở câu dưới thì ngược lại cô gái là chủ thể , chàng trai là đối tượng trữ tình. 
Trong trường hợp bài ca dao chỉ là một vế của sự đối hoặc đáp thì việc xác định nhân vật trữ tình thuận lợi hơn xác định đối tượng trữ tình vì ở đây đối tượng trữ tình lặng yên không nói. Trong trường hợp như vậy thì việc xác định đối tượng trữ tình chỉ có thể làm một cách gián tiếp thông qua nhân vật trữ tình căn cứ vào lời lẽ xưng hô, bộc lộ tình cảm của nhân vật trữ tình mà đoán định 
 Bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai” có thể xác định nhân vật trữ tình chính là cô gái qua cách xưng hô” Em” và bộc lộ tâm trạng thương nhớ người yêu với nỗi nhớ thương triền miên da diết khắc khoải trong mọi không gian và thời gian. 
 Bài ca dao “ tát nước đầu đình” ta biết đối tượng trữ tình là cô gái , một cô gái chưa chồng , người bạn cùng làng của chàng trai , căn cứ vào cách xưng hô của chàng trai với các đại từ “em” “cô ấy” và câu : 
 Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho
Việc xác định đối tượng trữ tình là công việc quan trong có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc giảng dạy ca dao. Nếu hiểu không đúng đối tượng trữ tình có thể dẫn đến sự hiểu sai bài ca dao. 
 Ví dụ bài ca dao: “ Cái bống đi chợ cầu Nôm” nếu không chú ý đến đối tượng trữ tình của nó ( đứa trẻ đang rất ngây thơ bé bỏng) và chủ thể trữ tình của nó ( Người mẹ , người bà, người chị) thì không thể nào hiểu được bài ca dao ấy, thậm chí có thể rơi vào sự suy diễn thiếu căn cứ.
 Trong mỗi bài ca dao đối tượng trữ tình có thể là một cũng có thể là một số nhân vật khác nhau. Bài “ Tóc quăn chải lược đồi mồi” nhân vật trữ tình là người con ở đang bất bình với chủ nhà cao độ và quyết định bỏ chủ ra về. Đối tượng trữ tình gồm nhiều nhân vật thuộc những đối tượng khác nhau ( Chúng bạn chăn trâu, cái rổ, cái rế, cái cọc cầu ao, con trâu và có lúc là tất cả mọi người như là than thở với đời chứ không phải riêng ai) 
Vì thế đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất trong bài ca rất phong phú và thay đổi tùy từng đối tượng. Với chúng bạn, người con ở xưng mình là “ tớ” một cách thân mật , tự nhiên:
 Giã ơn chúng bạn chăn trâu
 Tớ về Đồng Bãi hái dâu chăn tằm
 Tớ ở chưa được nửa năm
 Chúa nhà mắng tớ, tớ nằm không yên.
Với những công cụ lao động, những đồ dùng thân thuộc hàng ngày anh xưng “ tao” và “ mày” coi chúng như người bạn đặc biệt của mình.
 Giã ơn cái rổ cái sề
 Tao chẳng ở nữa tao về nhà tao
 Giã ơn cái cọc cầu ao
 Nửa đêm gà gáy có tao có mày 
 Giã ơn con trâu kéo cày
 Tao không ở nữa ai chăn mày trâu ơi!
 Ca dao thường sử dụng biểu tượng nên khi tìm hiểu bài ca dao cần xem xét biểu tượng trong bài. Bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai” nỗi thương nhớ được diễn tả cụ thể và gợi cảm. Đó là nhờ cách nói riêng mang tính nghệ thuật của ca dao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu được biểu lộ cụ thể sinh động bằng các biểu tượng “ Khăn , đèn , mắt” đặc biệt là hình ảnh Khăn. Khăn , đèn được nhân hóa, còn mắt là phép hoán dụ để nói đến nhân vật trữ tình. Cô gái hỏi khăn, đèn , mắt chính là cô tự hỏi lòng mình và hẳn là nhớ thương bồn chồn lắm cô mới hỏi dồn dập đến vậy. Khăn , đèn , mắt là biểu tượng cho nỗi niềm thương nhớ của cô gái đang yêu. 
 Câu ca dao: Thân em như hạt mưa rào
 Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa 
Hạt mưa chỉ thân phận của người con gái .
 Ca dao còn sử dụng nhiều hình ảnh biểu tượng khác như: Bến sông chỉ sự chờ đợi ngóng trông :
 Thuyền về có nhớ bến chăng? 
 Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
 Mận, đào, trúc , mai, loan ,phượng chỉ sự gắn bó trong tình yêu . Mỗi biểu tượng đều có một cơ sở lịch sử văn hóa xã hội và ngữ nghĩa nhất định , trong quá trình phân tích cần tìm được cái hay , cái đẹp mà biểu tượng ấy thể hiện.
 Khi phân tích một bài ca dao cần phối hợp giữa phân tích tổng thể tác phẩm và từng chi tiết vừa phân tích sự kiện vừa phân tích lối dùng từ ngữ hình ảnh.
 Ước gì sông rộng một gang
 Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.
Đây là ước muốn của cô gái cũng là lời cô thầm nói với người yêu của mình. Cô đã thổ lộ ước muốn đó trong một ý tưởng táo bạo bằng một hình ảnh độc đáo: Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi 
Trong ca dao tình yêu cái cầu là là chi tiết nghệ thuật quen thuộc và đặc sắc , xuất hiện với tần số khá lớn trở thành biểu tượng để chỉ nơi hẹn hò , gặp gỡ của những đôi lứa đang yêu, là phương tiện để họ đến với nhau. Cái cầu đó có khi là cành hồng, cành trầm , nhiều khi là ngọn mồng tơi . Đó là những cái cầu không có thực được dệt nên bằng ước mơ táo bạo của con người. Nhưng chính những cái cầu ảo đó lại đem đến một vẻ đẹp rất dân gian , rất đồng quê mà chỉ ca dao mới có được. 
Đặt trong hệ thống hình ảnh cái cầu nói trên càng thấy rõ vẻ đẹp của cái cầu dải yếm. Ước muốn đã độc đáo tạo ra cái cầu để thực hiện ước muốn đó lại càng độc đáo hơn. 
 Ước gì sông rộng một gang
 Bắc cầu dải yếm đẻ chàng sang chơi
 Ở đây con sông không thực mà cái cầu lại càng ảo. Có con sông ấy thì mới có cái cầu ấy. Nó đích thực là cái cầu tình yêu trong ca dao mà lại là cái cầu của người con gái chủ động bắc cho người mình yêu trong sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến . Nó táo bạo, mãnh liệt nhưng cũng rất trữ tình ý nhị biết bao bởi nó là cái yếm vật mềm mại luôn quấn quýt bên người con gái: Nó chính là người con gái Người con gái muốn dùng cái vật thân thiết gần gũi nhất của mình để bắc cầu mời mọc người mình yêu. Cái cầu dải yếm được tạo nên từ chính máu thịt, cuộc đời, 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_giang_day_ca_dao_trong_chu.doc