Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình

Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình

Cơ sở lí luận của vấn đề

Trong mọi thời đại, mục tiêu của ngành giáo dục chính là đào tạo ra một thế hệ con người mới có sự phát triển toàn diện cả về phẩm chất và đạo đức, năng lực và trí tuệ để đáp ứng mọi yêu cầu của thực tiễn. Vì vậy, người giáo viên phải là người biết vận dụng những phương pháp dạy học hiện đại, luôn luôn không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ của bản thân, nhằm mục đích phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính tích cực của học sinh trong các môn học, đặc biệt là môn Toán.

Tích cực là một trạng thái của hành động trí óc hoặc chân tay của người có mong muốn hoàn thành tốt một công việc nào đó. Tính tích cực học tập là một phẩm chất, nhân cách của người học, được thể hiện ở tình cảm, ý chí quyết tâm giải quyết các vấn đề mà tình huống học tập đặt ra để có tri thức mới, kĩ năng mới.

Môn Toán còn có sự hấp dẫn riêng vì sự thông thái ẩn chứa trong môn học này. Người giáo viên Toán cần làm cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp, cái ý nghĩa của mỗi nội dung toán học mà các em được học. Nếu giáo viên không làm cho học sinh cảm thụ được những điều đó, thì các em sẽ cảm thấy toán học rất khô khan, mất hết ý nghĩa của việc học toán.

Chính vì vậy, việc giúp học sinh giải quyết những khó khăn trong quá trình học, tìm ra được những phương pháp để giải quyết các bài toán khó, thì người giáo viên đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đây cũng chính là vấn đề mà bản thân tôi luôn trăn trở khi giảng dạy cho các em.

Chương trình học của môn Toán vô cùng rộng lớn, đặc biệt là kiến thức về phương trình, một trong những kiến thức mà các em thường xuyên gặp phải từ những dạng đơn giản đến phức tạp. Đến năm học lớp 8, dạng toán này mở rộng ra là bài toán có lời giải, các em phải là những người đọc đề bài toán sau đó lập cho mình một phương trình để giải quyết, dạng toán này tương đối mới mẻ, các em phải biết liên hệ với các môn học khác, các tình huống xảy ra trong thực tế để tìm ra cho mình một hướng giải quyết bài toán, do đó gây cho các em khá nhiều khó khăn. Đa số các em không thể dễ dàng giải quyết được bài toán này, đây chính là vấn đề mà tôi luôn trăn trở khi trực tiếp giảng dạy các em. “Lập phương trình đối với một bài toán cho trước là biện pháp cơ bản để áp dụng toán học vào khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Không có phương trình thì không có toán học, nó như phương tiện nhận thức tự nhiên” (P.X.Alêkxanđơrôp).

 

docx 30 trang hoathepmc36 01/03/2022 10258
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I. MỞ ĐẦU	2
I. Đặt vấn đề	2
II. Mục đích nghiên cứu	3
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ	3
I. Cơ sở lí luận của vấn đề	3
II. Thực trạng của vấn đề	4
III. Các giải pháp đã tiến hành	6
IV. Tính mới của giải pháp	17
V. Hiệu quả SKKN	17
PHẦN THỨ III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ	26
I. Kết luận	26
II. Kiến nghị	26
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Trong thời đại hiện nay, kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam không ngừng được quan tâm, cải tiến, đổi mới phù hợp với thế giới và các quốc gia trong khu vực. Những năm qua, cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học, sách giáo khoa cũng được quan tâm chỉnh sữa, đổi mới để phù hợp hơn với yêu cầu của thực tiễn, đi liền với đó là lượng kiến thức mà học sinh phải tiếp thu tương đối lớn. Do đó tất cả các môn học đều đòi hỏi ở các em sự chủ động trong từng nội dung kiến thức, tư duy sáng tạo và không ngừng học hỏi để nâng cao sự hiểu biết. Đặc biệt đối với môn toán, một trong những bộ môn yêu cầu độ chính xác cao, trình bày khoa học và phải có tính logic chặt chẽ thì yêu cầu đó lại càng được chú trọng. Trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử dụng phương pháp dạy học lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ động trong học tập của học sinh dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn, động viên khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học ở một số bộ phận học lực yếu kém. Vì vậy, bản thân người giáo viên không chỉ là người có kiến thức vững vàng, nhiệt huyết với công việc, với vai trò là người tổ chức hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết người giáo viên cần phải nghiên cứu, phải tìm và phải biết tiếp cận với cái mới trên cơ sở kế thừa cái hay, cái đẹp của cái cũ để phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi gợi niềm đam mê học tập của học sinh. Thật vậy, đó không chỉ là điều mà các thầy cô giáo mong muốn mà còn là mục tiêu chung của bộ giáo dục đang đề ra và được triển khai rộng khắp cả nước. 
Bản thân là một giáo viên đã đứng trên bục giảng hơn 8 năm, thời gian không phải quá dài nhưng cũng ít nhiều rút ra được vài kinh nghiệm quý báu trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt khi trực tiếp giảng dạy bộ môn toán 8, tôi nhận thấy nội dung kiến thức về Giải bài toán bằng cách lập phương trình là một trong những dạng bài tập gây cho học sinh rất nhiều khó khăn, số lượng bài tập vô cùng nhiều và phong phú có trong sách giáo khoa cũng như trong các tài liệu tham khảo có liên quan. Tuy nhiên để phân loại từng dạng bài tập cũng như phương pháp đi tìm lời giải cho từng dạng bài tập đóng vai trò quan trọng trong việc phụ đạo học sinh yếu cũng như bồi dưỡng và nâng cao kiến thức cho các em học sinh giỏi. Tôi nghĩ cần phải làm như thế nào đó để học sinh có thể vận dụng được tốt trong việc phân chia được các dạng, tìm được phương pháp giải và không có sự nhầm lẫn giữa các dạng bài tập. Và đây cũng là tiền đề để các em chủ động hơn trong việc vận dụng vào kiến thức Giải bài toán bằng cách lập hệ phương trình khi được học lên lớp 9. Kiến thức về dạng bài tập này tương đối lớn, tuy nhiên ở đây tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm của mình tích lũy được trong quá trình phụ đạo cũng như ôn thì học sinh giỏi về việc đưa ra “ Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình”.
 II. Mục đích nghiên cứu
Điều 24, luật giáo dục (do Quốc hội khoá X thông qua) đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là mục tiêu không phải chỉ riêng đối với bộ môn toán mà còn là mục tiêu chung của toàn bộ các môn học.
Từ xưa đến nay môn toán luôn là một trong những môn học được học sinh và phụ huynh xem như là môn học chính vì nó được vận dụng nhiều trong đời sống cũng như là tiền đề quan trọng đối với một số môn học khác. Tuy nhiên, môn toán là một môn học khô khan, đòi hỏi tính chính xác cao, tính logic chặc chẽ, và độ khó càng ngày càng được nâng lên trong từng nội dung kiến thức theo từng cấp học. Và đây cũng chính là nguyên nhân gây nên tình trạng một phần lớn học sinh không hứng thú, cảm thấy áp lực trong mỗi giờ học Toán. 
Từ thực tế giảng dạy bộ môn Toán ở THCS trên địa bàn xã nhà trong nhiều năm, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải tìm ra phương pháp để gây hứng thú học tập cho học sinh, làm cho tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động, học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Hơn nữa, đối với môn toán, từng nội dung kiến thức đều liên quan chặt chẽ với nhau, nếu nắm vững nội dung kiến thức này, thì đây cũng là tiền đề để vận dụng vào nội dung tiếp theo. Chính vì vậy, tôi đã nghiên cứu và áp dụng nhiều biện pháp vào lớp mình dạy nhằm mục đích lôi cuốn học sinh vào mỗi tiết học, giúp học sinh hiểu bài dễ dàng, vận dụng giải bài tập tốt hơn, biến mỗi giờ học toán trở nên thú vị, giúp các em cảm thấy yêu thích môn học hơn, cảm giác nội dung bài học nhẹ nhàng, đơn giản, chủ động hơn trong việc tiếp thu kiến thức và vận dụng nó sau này.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Trong mọi thời đại, mục tiêu của ngành giáo dục chính là đào tạo ra một thế hệ con người mới có sự phát triển toàn diện cả về phẩm chất và đạo đức, năng lực và trí tuệ để đáp ứng mọi yêu cầu của thực tiễn. Vì vậy, người giáo viên phải là người biết vận dụng những phương pháp dạy học hiện đại, luôn luôn không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ của bản thân, nhằm mục đích phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính tích cực của học sinh trong các môn học, đặc biệt là môn Toán.
Tích cực là một trạng thái của hành động trí óc hoặc chân tay của người có mong muốn hoàn thành tốt một công việc nào đó. Tính tích cực học tập là một phẩm chất, nhân cách của người học, được thể hiện ở tình cảm, ý chí quyết tâm giải quyết các vấn đề mà tình huống học tập đặt ra để có tri thức mới, kĩ năng mới.
Môn Toán còn có sự hấp dẫn riêng vì sự thông thái ẩn chứa trong môn học này. Người giáo viên Toán cần làm cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp, cái ý nghĩa của mỗi nội dung toán học mà các em được học. Nếu giáo viên không làm cho học sinh cảm thụ được những điều đó, thì các em sẽ cảm thấy toán học rất khô khan, mất hết ý nghĩa của việc học toán.
Chính vì vậy, việc giúp học sinh giải quyết những khó khăn trong quá trình học, tìm ra được những phương pháp để giải quyết các bài toán khó, thì người giáo viên đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đây cũng chính là vấn đề mà bản thân tôi luôn trăn trở khi giảng dạy cho các em.
Chương trình học của môn Toán vô cùng rộng lớn, đặc biệt là kiến thức về phương trình, một trong những kiến thức mà các em thường xuyên gặp phải từ những dạng đơn giản đến phức tạp. Đến năm học lớp 8, dạng toán này mở rộng ra là bài toán có lời giải, các em phải là những người đọc đề bài toán sau đó lập cho mình một phương trình để giải quyết, dạng toán này tương đối mới mẻ, các em phải biết liên hệ với các môn học khác, các tình huống xảy ra trong thực tế để tìm ra cho mình một hướng giải quyết bài toán, do đó gây cho các em khá nhiều khó khăn. Đa số các em không thể dễ dàng giải quyết được bài toán này, đây chính là vấn đề mà tôi luôn trăn trở khi trực tiếp giảng dạy các em. “Lập phương trình đối với một bài toán cho trước là biện pháp cơ bản để áp dụng toán học vào khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Không có phương trình thì không có toán học, nó như phương tiện nhận thức tự nhiên” (P.X.Alêkxanđơrôp).
Vì những lẽ trên, tôi đã tích góp tất cả kinh nghiệm và nghiên cứu của bản thân để tìm ra: Một số phương pháp giải quyết bài toán bằng cách lập phương trình.
II. Thực trạng của vấn đề
Trường THCS Lê Đình Chinh là trường có nền tảng giáo dục lâu đời, nhiều giáo viên có kiến thức chuyên môn vững vàng, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, luôn luôn tìm tòi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 
Mặc khác, Trường vừa đạt chuẩn quốc gia cấp độ 1 nên cơ sở vật chất của nhà trường cũng ngày càng được cải thiện theo hướng tích cực, để phục vụ nhu cầu dạy và học của thầy trò trong trường.
Về công tác chuyên môn, nhà trường cũng thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, thao giảng dự giờ, đóng góp ý kiến cho nhau, để tiết dạy được hoàn thiện hơn. 
Bên cạnh đó, Phòng Giáo dục của huyện nhà cũng tổ chức định kì các chuyên đề để trao đổi công tác chuyên môn theo các cụm giáo dục. Đây cũng là dịp để các thầy cô giáo trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa các trường với nhau để ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy. 
Về học sinh, các em học sinh của trường đa phần là con em nông dân, người Quảng Nam, nên tính tình hiền lành, ngoan ngoãn, chăm chỉ mặc dù điều kiện gia đình còn khó khăn nhưng các em luôn nỗ lực, cố gắng phấn đấu khắc phục khó khăn để vươn lên trong học tập. Phụ huynh học sinh cũng có sự phối hợp nhịp nhàng với giáo viên trong công tác quản lý và giáo dục học sinh.
Ngoài những thuận lợi kể trên thì hiện tại trường vẫn gặp nhiều khó khăn nhất định. Cơ sở vật chất của trường tuy đã được đầu tư hơn trước, nhưng so với nhu cầu sử dụng thì vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn khá nhiều. Lực lượng giáo viên trẻ còn nhiều nên còn thiếu kinh nghiệm trong việc giảng dạy. Gia đình học sinh chủ yếu là lao động chân tay nên điều kiện học tập của các em còn hạn chế, ngoài thời gian đến lớp, đa phần các em còn phải phụ giúp gia đình trong công việc đồng án ở nhà, do đó thời gian học tập ở nhà còn hạn hẹp. Không những vậy, nhiều gia đình học sinh có hoàn cảnh hết sức khó khăn nên một bộ phận học sinh có tư tưởng bở học đi làm thêm kiếm tiền phụ giúp gia đình gây nên khó khăn không nhở trong việc vận động học sinh đến lớp của giáo viên. 
Năm học 2018-2019 được phân công giảng dạy môn Toán 8, sau khi nhận nhiệm vụ tôi đã tiến hành điều tra, sát hạch về hứng thú học tập và kết quả học tập môn Toán của học sinh ba lớp 8A1, 8A2, 8A3 bằng phiếu điều tra và bài kiểm tra 90 phút với hình thức trắc nghiệm, tự luận ngay từ đầu năm học với kết quả thu được như sau:
- Về hứng thú học tập:
Tổng số HS
Yêu thích
Không yêu thích
94
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
28
29,8%
66
70,2%
- Về kết quả học tập:
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
94
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
7
7.4%
15
16%
65
69,2%
7
7.4%
Đây là kết quả chưa thật sự tốt đối với một trong những bộ môn được xem như khá quan trọng trong chương trình học của học sinh, đặc biệt trong quá trình giảng dạy vẫn còn một phần lớn học sinh khá thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, cũng như giải bài tập, không hăng say phát biểu bài, đa số mỗi tiết học là giáo viên say sưa giảng bài, một phần nhỏ học sinh tiếp thu, phát biểu còn lại đa số học sinh ngồi chép bài một cách thụ động. Chính vì vậy, việc tìm ra một phương pháp mới để thay đổi thực trạng trên là vấn đề mà tôi luôn băn khoăn và suy nghĩ.
III. Các giải pháp đã tiến hành
	Khi trực tiếp giảng dạy cho các em học sinh, tôi nhận thấy những khó khăn mà các em gặp phải đến từ các yếu tố chủ quan cho đến khách quan, việc giải quyết những khó khăn đó đòi hỏi người giáo viên phải luôn theo sát những bước đi của các em. Nắm được tâm lý ngại khó, ngại suy nghĩ của các em nên tôi đã phân chia các bài tập ra từng dạng cụ thể, phân chia các bài tập theo từng cấp độ phù hợp với từng đối tượng học sinh, đồng thời kích thích, gây sự hứng thú cho các em học sinh khá giỏi.
	Ngoài việc yêu cầu học sinh hoạt động cá nhân, chúng ta còn có thể cho học sinh nghiên cứu giải quyết bài toán theo hình thức hoạt động cặp đôi, hoạt động nhóm, thi đua giữa các tổ để tạo nên không khí thoải mái, kích thích sự tự giác, chủ động, sáng tạo của các em học sinh, bên cạnh đó, các em còn có thể giúp đỡ nhau trong quá trình học tập.
	Bên cạnh đó, bản thân tôi luôn quan sát, hướng dẫn các em trong cách trình bày bài giải, sửa lỗi cho các em ngay trực tiếp khi giải quyết bài toán, điều đó sẽ giúp các em ghi nhớ, và khắc sâu hơn nội dung bài toán, tránh việc các em thấy khó mà nản chỉ, không chịu suy nghĩ, đồng thời có thể nhận ra những khó khăn mà các em gặp phải, để rút ra kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình giảng dạy.
Khi học xong giải bài toán bằng cách lập phương trình, bản thân tôi còn dùng phương pháp trò chuyện gợi mở để thu thập thêm một số thông tin , phân loại đối tượng học sinh trong việc giải toán bằng cách lập phương trình . 
Tuy nhiên, dù áp dụng phương pháp mới, phương pháp tích cực đến mấy thì cũng phải và luôn kế thừa những phương pháp truyền thống. Phải biết xen kẽ bổ sung cho nhau để phù hợp với tình hình thực tế và từng đối tượng học sinh.
Dưới đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện:
Giải pháp 1. Hướng dẫn học sinh nghiên cứu đề bài.
Mỗi bài tập đều thuộc các dạng bài tập khác nhau, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc thật kĩ đề bài để nắm được các thông tin trong đề bài, thông qua đó xác định được các đại lượng nào đã cho, đại lượng nào phải đi tìm để đặt ẩn cho phù hợp ( kèm theo đơn vị và điều kiện hợp lý), bài toán cần áp dụng các công thức nào có liên quan để giải quyết bài toán.
Giải pháp2. Quy định tiến trình chung để giải bài toán bằng cách lập phương trình.
Mặc dù mỗi học sinh đều có khả năng tư duy, năng lực của mỗi cá nhân khác nhau, tuy nhiên, trong bất kỳ bài toán giải bằng cách lập phương trình nào thì chúng ta cần phải thống nhất cho học sinh một trình tự để giải quyết nó. Qua đó có thể rèn cho học sinh cách trình bày bài toán một cách logic, khoa học hơn. Cụ thể như sau:
* Bước 1: Chọn ẩn số ( ghi rõ đơn vị ) và đặt điều kiện cho ẩn;
* Bước 2: Biểu diễn các đại lượng chưa biết theo ẩn và các đại lượng đã biết;
* Bước 3: Lập phương trình biểu thị mối quan hệ giữa các đại lượng.	
* Bước 4: Giải phương trình, chọn nghiệm và kết luận.
Lưu ý: Trong 3 bước trên, cần chỉ ra cho học sinh bước 1 là quan trọng nhất, nó quyết định bài giải có đúng hay không, các em cần xác định xem bài toán thuộc dạng bài tập nào để lựa chọn ẩn cho phù hợp. Từ đó xác định đơn vị và điều kiện của ẩn phải đúng với thực tế cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Tìm ra mối quan hệ với các đại lượng khác để lập ra được phương trình đúng.
Ngoài ra, sau khi tìm được nghiệm của phương trình, phải đối chiếu với điều kiện xác định ở bước 1 rồi mới đi tới kết luận của bài toán.
Ví dụ: Một người đi xe máy từ A đến B với vân tốc 40 km/h . Lúc về, người đó đi với vận tốc 30 km/h, nên thời gian về nhiều hơn thời gian đi là 45 phút. Tính quãng đường AB. 
Giải:
Bước 1: Gọi x (km) là quãng đường AB ( x > 0)
Bước 2: Thời gian đi: (giờ) ; thời gian về: (giờ)
Bước 3: Vì thời gian về nhiều hơn thời gian đi là 45 phút = giờ nên ta có phương trình: – = 
Bước 4: – = 
 4x – 3x = 90
 x = 90 (thỏa đ/k) 
Vậy quãng đường AB là: 90 km
Giải pháp 3. Phân loại từng dạng bài tập cho học sinh
Tùy theo từng dạng bài tập cụ thể mà người giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh cách giải quyết cho phù hợp. Giúp học sinh giải quyết các bài toán một cách chủ động, không bỡ ngỡ khi gặp các bài toán khác nhau, tạo sự hứng thú cho học sinh. 	Mỗi dạng toán sẽ có cách giải quyết và hướng dẫn khác nhau, ta sẽ xét từng dạng cụ thể như sau:
* Dạng 1: Dạng toán về chuyển động:
Trong chương trình toán lớp 8 mà các em học sẽ gặp rất nhiều bài toán thuộc dạng toán chuyển động này như: các bài toán về chuyển động cùng chiều, ngược chiều trên cùng một quảng đường, hoặc chuyển động xuôi dòng, ngược dòng nước.
Vì vậy, để giải quyết các bài toán này, các em cần phải nắm vững các kiến thức, công thức liên quan. Như đối với bài toán về chuyển động thì các em phải nắm rõ mối liên hệ giữa các đại lượng về quãng đường, thời gian, vận tốc và mối liên hệ của chúng qua công thức: s=v.t. Từ đó suy ra: ; . Hay đối với bài toán chuyển động xuôi dòng, ngược dòng nước các em phải nắm được: 
	 vxuôi = vThực + v dòng nước ; vngược = vThực - v dòng nước
Từ đó mới có thể suy luận để lập ra được phương trình phù hợp.
Ví dụ: Đối với bài toán: Một ca nô xuôi dòng từ bến A đến bến B mất 6 giờ và ngược dòng từ bến B về bến A mất 7 giờ. Tính khoảng cách giữa hai bến A và B, biết rằng vận tốc của dòng nước là 2 km/h. 
Phân tích bài toán: 
Đối với các dạng toán về chuyển động này thì ta có thể hướng dẫn học sinh lập bảng hay vẽ sơ đồ về mối liên hệ giữa các đại lương, khi đó các em sẽ dễ dàng tìm được hướng giải quyết bài toán hơn. Cụ thể:
Nếu ta gọi x (km/h) là vận tốc của ca nô ( x > 2) thì dựa vào mối liên hệ giữa quảng đường, vận tốc, thời gian và vận tốc khi đi xuôi dòng, ngược dòng nước ta có bảng tóm tắt sau:
Ca nô
S(km)
V (km/h)
t(h)
Xuôi dòng
6(x+2)
x +2
6
Ngược dòng
7(x-2)
x-2
7
	Qua bảng tóm tắt ta dễ dàng lập ra được phương trình: 6(x+2) = 7(x-2).
	Giải: 
Gọi x (km/h) là vận tốc của ca nô ( x > 2).
Vận tốc khi ca nô đi xuôi dòng nước là: x+2 (km/h)
Quảng đường ca nô đi khi xuôi dòng là: 6(x+2) (km)
Vận tốc khi ca nô đi ngược dòng nước là: x - 2 (km/h)
Quảng đường ca nô đi khi ngược dòng là: 7(x - 2) (km)
Vì quảng đường khi đi và về giống nhau nên ta có phương trình:
 6(x+2) = 7(x-2)
6x +12=7x – 14
x = 26 ( Thỏa mãn Đ/k).
( Đến đây học sinh dễ mắc sai lầm là đi kết luận bài toán: Vận tốc của ca nô là 26 km/h. Do đó cần hướng dẫn các em xác định rõ yêu cầu của bài toán là tìm cái gì để có đáp án hợp lý).
Vậy quảng đường từ A đến B là: 6.( 26+2) =168 km
	Lưu ý: Trong một bài toán sẽ có nhiều đại lượng chưa biết, ta phải căn cứ vào đề bài để lựa chọn ẩn cho phù hợp. Ưu tiên chọn trực tiếp đại lượng bài toán yêu cầu làm ẩn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp không thể chọn trực tiếp ta phải chọn đại lượng trung gian làm ẩn như trong ví dụ nêu trên.
	 Một số bài toán tương tự:
Bài 1: Một người dự định đi từ Hà Nội về Thanh Hóa. Ban đầu Người đó dự định đi xe máy với vận tốc 50km/h. Nhưng sau đó người đó lại đi ô tô với vận tốc 60km/h nên đã đến sớm hơn dự định là 1 giờ. Tính quãng đường từ Hà Nội vào đến Thanh Hóa
Bài 2: Một người đi từ A đến B. Lúc đầu người đó dự định đi với vận tốc là 40km/h, nhưng đi được ½ quãng đường thì người đó dừng xe nghỉ 20 phút. Để đến B đúng dự định người đó phải đi với vận tốc mới lớn hơn vận tốc cũ là 10km/h. Tính quãng đường AB.
Bài 3: Một xe máy khởi hành từ A đến B vào lúc 10 h sang với vận tốc là 45km/h. Lúc 11h sang, một ô tô cũng xuất phát từ A đến B với vận tốc là 60km/h. Hỏi 2 xe gặp nhau lúc mấy h ?
Bài 4: Một xe máy đi từ A đến B với vận tốc 50km/h. Đến B người đó nghỉ 15 phút rồi quay về A với vận tốc 40km/h. Biết thời gian tổng cộng hết 2 giờ 30 phút. Tính quãng đường AB.
Bài 5: Một người đi ôtô từ A đến B dài 240 km ,trên nửa quãng đường đầu đi với vận tốc dự định , trên nửa quãng đương sau người đó đi với vận tốc bằng 3/2 vận tốc dự định .Tính vận tốc dự định ,biết thời gian đi trên cả quãng đườg là 5 giờ ?
Bài 6: Đường sông từ thành phố A đến thành phố B ngắn hơn đường bộ là 10 km. Canô đi từ A đến B hết 3h20’ còn ôtô đi hết 2h. Vận tốc của canô nhỏ hơn vận tốc của ôtô là 17 km/h. Tính vận tốc của canô ? 
Bài 7:Một ca nô chạy trên một khúc sông từ bến A đến bến B, khi đi xuôi dòng thì mất 5 giờ, khi đi ngược dòng thì mất 6 giờ. Tính khoảng cách từ bến A đến bến B, biết vân tốc của ca nô khi đi xuôi dòng hơn vân tốc của ca nô khi đi ngược dòng là 6km/giờ?
Bài 8:Một ca nô xuôi dòng từ A đến B hết 4 giờ và ngược dòng từ B về A hết 6 giờ. Biết vận tốc của dòng nước 50m/phút. Tính
	a, Chiều dài quãng sông AB
	b, Vận tốc ca nô trong nước yên lặng.
Bài 9: Một ca nô xuôi dòng từ A đến B hết 2 giờ và ngược dòng từ B về A hết 4 giờ. Hỏi một cụm bèo trôi theo dòng nước từ A đến B hết mấy giờ?
Bài 10: Lúc 6 giờ sáng một chuyến tàu thuỷ chở khách xuôi dòng từ A đến B nghỉ lại 2 giờ để trả và đón khách rồi lại ngược dongngf về đến A lúc 3 giờ 20 phút chiều cùng ngày. Hãy tính khoảng cách giữa hai bến A và B, biết rằng thời gian xuôi dòng nhanh hơn thời gian ngược dòng 40 phút và vận tốc của dòng nước là 

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_giai_bai_toan_bang.docx