Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng hiểu và cảm thụ thơ cho học sinh Lớp 10 ở trường Trung học Phổ thông số 2 Bát Xát

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng hiểu và cảm thụ thơ cho học sinh Lớp 10 ở trường Trung học Phổ thông số 2 Bát Xát

I. Vai trò của thơ trong nền văn học Việt Nam

Với nhân dân Việt Nam, thơ có vai trò rất quan trọng. Ngàn xưa, từ thế kỷ XI đến XX, trong khoa cử Nho giáo, các kỳ thi Hương, thi Hội đều có đề bài về thơ và sáng tác thơ, từ đó đào tạo biết bao thi nhân nổi tiếng cho nước nhà như: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu. Hiện nay, học sinh từ tiểu học lên đến trung học, đại học, cấp lớp nào cũng học thơ. Chưa có một nước nào trên thế giới thơ phú lại phát triển như ở nước ta. Và trong tác phẩm “ Nhìn về vốn văn hoá dân tộc”, Trần Đình Hượu cũng từng nhận xét về thơ như sau “Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ”. Trong lao động, thơ Việt Nam kết tinh thành nhiều tác phẩm văn học dân gian tuyệt tác. Những bài hát ví phường vải, ví phường cấy, hò tát nước, hò kéo gỗ, hò chèo thuyền, hò kéo lưới. là chứng tỏ thơ đã thấm vào máu thịt, đã kết tinh trong tâm hồn và trở thành món tinh thần của người lao động.

Trong chiến đấu, thơ Việt Nam cũng đóng vai trò rất lớn: từ bài thơ "thần" của Lý Thường Kiệt đến những bài thơ yêu nước của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, rồi thơ động viên tinh thần chiến đấu của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Thụ. Độc đáo đến mức có những chiến sĩ ra trước pháp trường vẫn thản nhiên đọc thơ như Cao Bá Quát, Mai Xuân Thưởng. Dùng thơ để tỏ khí tiết, chắc chỉ có dânViệt Nam thành thạo từ xưa. Thơ làm cho tâm hồn con người ta bay bổng thanh cao, hướng thiện, đó còn là thú chơi tao nhã của người Việt Nam bao đời nay.Trong chương trình THPT, thơ chiếm một vị trí quan trọng, một tỉ lệ khá lớn trong chương trình, cụ thể như sau: trong chương trình lớp 10 gồm có 14 tác phẩm, chương trình 11: gồm có 20 tác phẩm và chương trình 12 có 8 tác phẩm kể cả đọc thêm.

Nhưng văn thơ cũng như tình yêu là một hiện tượng rất khó định nghĩa. Bởi thế việc nhận diện chính xác cũng không phải dễ dàng gì. Không phải ngẫu nhiên mà lịch sử phê bình văn học Đông và Tây cứ trở đi trở lại hai cực: hoặc thần bí hoá nó, hoặc xem nó là một cái tầm thường, dung tục. Tất nhiên cả hai cực ấy đều sai lầm và nguy hại.

Hơn nữa, phép toán của văn chương không phải hai cộng hai là bốn, mà có thể là năm, là sáu. Vì văn thơ là ở nghĩa bóng không phải nghĩa đen, ở ngoài chứ không phải ở trong lời, và cũng như linh hồn là cái thần thái của toàn bộ thể xác, nó không nằm ở chỗ nào rõ rệt mà nằm ở tất cả, làm sống lên tất cả mọi chân tơ kẽ tóc. Cảm thụ văn là lĩnh hội cái thần thái chung ấy của tác phẩm.

 

doc 29 trang cuonglanz2a 6160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng hiểu và cảm thụ thơ cho học sinh Lớp 10 ở trường Trung học Phổ thông số 2 Bát Xát", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
 PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
 Trang
1. Lý do chọn đề tài......... 1
2. Mục đích nghiên cứu............ 1
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu..................................... 1
4. Phương pháp nghiên cứu.......... 2
5. Thời gian nghiên cứu.....................................................................................2
6. Đóng góp của sáng kiến................................................................................ 2
 PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lí luận của vấn đề ...............................................................3
Chương II: Thực trạng của vấn đề.................................................................6
Chương III: Giải quyết vấn đề ...................................................................... 9
I. Giải pháp cụ thể........................................................................................... 9
II. Thiết kế minh họa........................................................................................16
III. Những kết quả bước đầu sau khi thử nghiệm sáng kiến.24
 PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN 25 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài: 
Dạy văn là một hoạt động khoa học đồng thời là một hoạt động nghệ thuật. Đó là một khoa học nhận thức tác phẩm văn học, nó cũng là nghệ thuật cảm thụ và truyền đạt cái hay, cái đẹp của tác phẩm đó theo một yêu cầu sư phạm nhất định. Nó đòi hỏi một năng lực có tính chất tổng hợp rất cao trong mọi năng lực của người thầy. Người thầy phải làm như thế nào để các em hiểu và cảm thụ được tác phẩm văn chương, để các em yêu và thấy hứng thú thực sự với môn văn. Vì khi không có hứng thú, người học sẽ không thể tập trung chú ý, đồng nghĩa với hoạt động tiếp nhận - cảm thụ của học sinh trong giờ giảng văn chỉ là sự bắt buộc chứ không phải là tự giác. Như thế người thầy trong giờ giảng văn, dù có cố gắng đến đâu thì cũng chỉ là "múa kích một mình trên sa mạc" mà thôi. 
 	Hơn nữa trong nhà trường THPT hiện nay môn Ngữ Văn vẫn được coi là một trong những bộ môn trọng tâm và là môn chính thức bắt buộc thi tốt nghiệp hàng năm. Thế nhưng vị trí ấy của môn Văn đang dần dần bị mất đi trong tình cảm và ý thức học tập bộ môn của học sinh. Nguyên nhân thì có nhiều. Trong đó, tâm lý học để thi đại học, cao đẳng và tâm lý, sở thích của tuổi trẻ hiện nay đang dần dần giết chết tình cảm của học sinh đối với môn Văn. Có những em học rất khá Văn và học yếu Toán nhưng vẫn sẵn sàng bỏ Văn học Toán. Đặc biệt đối với những người dạy văn ở miền núi như tại trường THPT số 2 Bát Xát, học sinh chủ yếu là con em đồng bào các dân tộc, đầu vào là rất thấp thì khó khăn đó còn tăng lên gấp bội. Bởi so với học sinh miền xuôi thì học sinh miền núi gặp nhiều hạn chế về hàng rào ngôn ngữ, về cảm xúc và cảm thụ hình tượng văn học. Nhất là hình tượng văn học trong tác phẩm thơ. Đó là điều tôi luôn trăn trở sau 8 năm đứng lớp. Vì thế tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng hiểu và cảm thụ thơ cho học sinh lớp 10 ở trường THPT số 2 Bát Xát” để mong góp được tiếng nói nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng môn văn, đánh thức tâm hồn và khát vọng của các em qua môn văn. 
2. Mục đích nghiên cứu: 	
Đưa ra một số phương pháp giúp các em học sinh khắc phục được những hạn chế và khó khăn trong việc học tác phẩm thơ. Đồng thời cảm thụ và hiểu được những tác phẩm thơ một cách sâu sắc. 
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu: 
- Phạm vi nghiên cứu: Các bài thơ ở lớp 10 THPT. Do điều kiện thời gian và năng lực có hạn nên chúng tôi chỉ giới hạn việc thực hiện đề tài này cho học sinh lớp 10A2 trong trường. 
- Đối tượng nghiên cứu: Là hoạt động dạy học văn bản thơ của giáo viên và học sinh trong chương trình văn học lớp 10 ban cơ bản ở THPT. 
4. Phương pháp nghiên cứu: 
Để thực hiện mục đích đề tài đặt ra, sáng kiến của tôi chủ yếu tập trung vào phương pháp khảo sát văn bản, khảo sát thực trạng học văn của các em học sinh, phương pháp điều tra giáo dục, phương pháp quan sát sư phạm, phương pháp tổng kết kinh nghiệm dạy học và giáo dục 
Ngoài ra trong quá trình thực hiện tôi còn sử dụng một số phương pháp hỗ trợ như: so sánh, đối chiếu, tổng hợp, phân tích. 
5. Thời gian nghiên cứu: 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu và thể nghiệm đề tài này trong năm học 2013 - 2014
6. Đóng góp của sáng kiến 
- Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc tìm hiểu và cảm nhận tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn lớp 10. 
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. Vai trò của thơ trong nền văn học Việt Nam
Với nhân dân Việt Nam, thơ có vai trò rất quan trọng. Ngàn xưa, từ thế kỷ XI đến XX, trong khoa cử Nho giáo, các kỳ thi Hương, thi Hội đều có đề bài về thơ và sáng tác thơ, từ đó đào tạo biết bao thi nhân nổi tiếng cho nước nhà như: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu... Hiện nay, học sinh từ tiểu học lên đến trung học, đại học, cấp lớp nào cũng học thơ. Chưa có một nước nào trên thế giới thơ phú lại phát triển như ở nước ta. Và trong tác phẩm “ Nhìn về vốn văn hoá dân tộc”, Trần Đình Hượu cũng từng nhận xét về thơ như sau “Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ”. Trong lao động, thơ Việt Nam kết tinh thành nhiều tác phẩm văn học dân gian tuyệt tác. Những bài hát ví phường vải, ví phường cấy, hò tát nước, hò kéo gỗ, hò chèo thuyền, hò kéo lưới... là chứng tỏ thơ đã thấm vào máu thịt, đã kết tinh trong tâm hồn và trở thành món tinh thần của người lao động. 
Trong chiến đấu, thơ Việt Nam cũng đóng vai trò rất lớn: từ bài thơ "thần" của Lý Thường Kiệt đến những bài thơ yêu nước của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, rồi thơ động viên tinh thần chiến đấu của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Thụ... Độc đáo đến mức có những chiến sĩ ra trước pháp trường vẫn thản nhiên đọc thơ như Cao Bá Quát, Mai Xuân Thưởng. Dùng thơ để tỏ khí tiết, chắc chỉ có dânViệt Nam thành thạo từ xưa. Thơ làm cho tâm hồn con người ta bay bổng thanh cao, hướng thiện, đó còn là thú chơi tao nhã của người Việt Nam bao đời nay.Trong chương trình THPT, thơ chiếm một vị trí quan trọng, một tỉ lệ khá lớn trong chương trình, cụ thể như sau: trong chương trình lớp 10 gồm có 14 tác phẩm, chương trình 11: gồm có 20 tác phẩm và chương trình 12 có 8 tác phẩm kể cả đọc thêm. 
Nhưng văn thơ cũng như tình yêu là một hiện tượng rất khó định nghĩa. Bởi thế việc nhận diện chính xác cũng không phải dễ dàng gì. Không phải ngẫu nhiên mà lịch sử phê bình văn học Đông và Tây cứ trở đi trở lại hai cực: hoặc thần bí hoá nó, hoặc xem nó là một cái tầm thường, dung tục. Tất nhiên cả hai cực ấy đều sai lầm và nguy hại. 
Hơn nữa, phép toán của văn chương không phải hai cộng hai là bốn, mà có thể là năm, là sáu. Vì văn thơ là ở nghĩa bóng không phải nghĩa đen, ở ngoài chứ không phải ở trong lời, và cũng như linh hồn là cái thần thái của toàn bộ thể xác, nó không nằm ở chỗ nào rõ rệt mà nằm ở tất cả, làm sống lên tất cả mọi chân tơ kẽ tóc. Cảm thụ văn là lĩnh hội cái thần thái chung ấy của tác phẩm. 
II. Khái niệm thơ và thi pháp thơ: 
1. Khái niệm thơ: 
Thơ là một thể loại văn học hết sức phong phú và phức tạp. Cho đến nay, "thơ là gì" vẫn là một câu đố mà các nhà lý luận văn học, lý luận ngôn ngữ đang cố gắng tìm lời giải đáp. Tuy nhiên theo tôi thì định nghĩa về thơ của nhà thơ Sóng Hồng viết trong bài "Cùng bạn đọc", in ở đầu tập thơ Sóng Hồng là khoa học hơn cả. Theo Sóng Hồng "Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp", "Thơ là hình thái nghệ thuật cao quý tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lý trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường". Đặc trưng nổi bật nhất của thơ là tính trữ tình, tính hình tượng, tính đa nghĩa, tính hàm súc. Thơ "chứa nhiều khoảng trắng trên không gian in thơ", đó là những "kiến thúc đầy âm vang". 
Đây không chỉ là đặc trưng riêng của thơ mà cũng là cái cần có đối với văn chương nghệ thuật, nhưng đối với thơ thì yêu cầu này là một tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá, thẩm định giá trị của nó. 
Thơ được phân chia ra thành nhiều tiểu loại dựa vào những tiêu chí khác nhau. Trong đó cách phân loại thơ theo đặc điểm thi pháp là cách phân loại phù hợp nhất với đặc trưng của thơ, đồng thời cũng có ý nghĩa thiết thực cho việc cảm thụ và dạy - học thơ. Dựa vào thi pháp có thể chia thơ làm hai loại: thơ cách luật và thơ tự do. 
2. Thi pháp thơ : 
Aristote (384 - 322 TCN) là người đầu tiên nghiên cứu về thi pháp. Công trình "Poetica" (Nghệ thuật thi ca) của ông ra đời cách đây 2400 năm vẫn là nền tảng của mọi công trình nghiên cứu về thi pháp suốt mấy chục thế kỷ. Qua nhiều bước thăng trầm, đến nay, các nhà nghiên cứu đã đi đến tương đối thống nhất quan niệm về thi pháp: "Thi pháp là tổ hợp những đặc tính thẩm mỹ nghệ thuật, phong cách của một hiện tượng văn học, các thành tố nghệ thuật và mối quan hệ giữa chúng". 
Thi pháp, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả những vấn đề loại hình, thể tài, những nguyên tắc, phương pháp phản ánh thực tại và các phạm trù không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, điểm nhìn nghệ thuật, quan niệm về thế giới và con người,... 
Trên cơ sở soi dọi định nghĩa thi pháp vào thơ, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: Đặc điểm nổi bật nhất của thi pháp thơ là tính trữ tình. Theo Bakhtine, bản chất của thơ "Là tiếng nói bộc bạch, chẳng hạn một bài thơ diễn đạt một nỗi buồn, oán thán, một niềm vui, một nỗi nhớ, một suy tưởng"; thơ là sự bộc bạch trực tiếp cảm xúc, là một lời tâm tình gan ruột, một tấc lòng tác giả. Khi giảng dạy và học tập thơ, phải giải mã được tình cảm mãnh liệt ấy. Đặc điểm thi pháp này chính là căn cứ cơ bản để phân biệt thơ và văn xuôi. Thơ thiên về cảm xúc, là sự bộc lộ bản thân người nghệ sĩ trước con người và cuộc đời. Còn truyện, truyện thiên về sự kiện, tình tiết, là sự sắp xếp các chi tiết của hiện thực theo quy luật của nghệ thuật. 
Thơ là sự thăng hoa của cái đẹp, là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Những điều kỳ diệu đó phải được truyền tải bằng hình thức nghệ thuật đặc sắc của ngôn từ, âm điệu, vần điệu, nhạc tính... 
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
I. Thực trạng cảm thụ tác phẩm thơ của học sinh hiện nay
Trong suốt quá trình giảng dạy, tôi đã đọc hàng nghìn bài văn của học sinh, đã nghe hàng ngàn câu trả lời. Có những bài hay, những câu trả lời xúc động mà bao năm qua tôi không thể nào quên được. Thế nhưng bài hay, câu trả lời để lại ấn tượng sâu sắc thì rất ít. Còn bài dở, bài sai kiến thức, bài viết ngây ngô vớ vẩn thì không biết bao nhiêu mà kể. Vấn đề nổi cộm từ các bài viết của các em học sinh ở trường tôi là các em không đọc tác phẩm hoặc đọc một cách qua loa đại khái. Trong nhiều bài thi ta bắt gặp sự bịa đặt hình ảnh, chi tiết không hề có trong tác phẩm hoặc trích thơ không chính xác. Chẳng hạn khi viết về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến thì có em đã nói rằng người lính Tây Tiến không mọc tóc vì không có dầu gội đầu nên phải cắt đi cho gọn. Nhiều bài viết có những đoạn văn sáo rỗng, bốc trời hoặc có sự tưởng tượng, liên tưởng tuỳ tiện: “ Đầu súng trăng treo đã mô tả lại thời kì đấu tranh chống thực dân Pháp, để lại cho nhân dân ta và nhân dân toàn thế giới về sau hãy gương những chiến sĩ cách mạng đi trước” Còn nhiều nữa những lỗi của các em mà phạm vi của một bài viết không thể dẫn ra hết được. Sai chính tả, không viết hoa danh từ riêng, dùng dấu câu sai, hoặc cả bài không có một dấu câu là chuyện muôn thuở. Viết câu què câu cụt, diễn đạt rối rắm cũng là những điều thường gặp trong bài làm của các em. 
Không chỉ thế, trong thói quen tiếp nhận văn học của học sinh vùng cao là các em thường đem “đức tính thật thà của mình để chiếm lĩnh tác phẩm thơ” Dẫu biết rằng sự thật là là một đức tính tốt, song cảm thụ tác phẩm văn chương một cách thật thà thì rất tai hại. Vì sự thật thà trong nhận thức văn chương đã tước bỏ gần hết những yếu tố đẹp trong văn chương: “đức tính thật thà là nấm mồ lớn chôn vùi mọi vẻ đẹp của văn chương”. Bởi vậy các em không hiểu được tầng nghĩa sâu của tác phẩm. Hơn nữa vốn từ ngữ phổ thông của các em học sinh ở vùng cao rất nghèo, nên trong quá trình trả lời câu hỏi hay diễn đạt một bài văn ngôn từ thường lặp đi lặp lại rất nhiều. Rồi khả năng tự lập để phát hiện vấn đề còn hạn chế, còn ỉ lại cho giáo viên khi khám phá tác phẩm. Tinh thần và thái độ học tập chưa cao. 
Bản thân tôi, có những giờ lên lớp cảm thấy ức chế vô cùng. Công lao chuẩn bị cho bài giảng mong rằng khi lên lớp sẽ truyền đạt được tới các em. Nhưng khi lên lớp, cô thì cố gắng giảng giải phân tích còn các trò thì ánh mắt lơ đãng, vô cảm. Khi tôi ra câu hỏi, chỉ được vài em học khá xung phong. Những em còn lại khi giáo viên đưa mắt xuống lớp thì những ánh mắt vội vàng cụp xuống như khước từ trả lời. Phát hiện và nhìn thấy chỗ thiếu và chỗ yếu của học sinh là quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là làm sao khắc phục được những chỗ non kém đó. Đó là cả một nghệ thuật đòi hỏi người giáo viên dạy văn phải nỗ lực không ngừng, phải tỉ mỉ và kiên trì. 
II. Nguyên nhân: 
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng đáng buồn trên, song nguyên nhân cơ bản nhất theo tôi là: 
- Khó khăn, rào cản đầu tiên trong việc tiếp nhận tác phẩm thơ đối với các em học sinh vùng cao là vấn đề ngôn ngữ. Chúng ta đều biết, ngôn ngữ văn học là yếu tố quan trọng bậc nhất để kết dệt nên tác phẩm văn chương. Những bài thơ hay được chọn giảng trong nhà trường phổ thông đều in bằng tiếng Việt. Trong khi đó đa số các em học sinh ở trường tôi lại là học sinh dân tộc vùng cao, các em quen giao tiếp bằng thứ tiếng của dân tộc mình. Vì vậy, vốn ngôn ngữ phổ thông của các em rất nghèo nàn. Trong khi đó nghĩa của từ trong tác phẩm thơ thì phong phú, đa dạng, không thể hiện hết trong lời mà chủ yếu ở ngoài lời. Vậy làm thế nào, bằng cách gì giúp các em vượt qua hàng rào ngôn ngữ để “khơi thông dòng suối cảm xúc” giúp các em khi tiếp nhận được tác phẩm thơ. Hẳn đó là điều mà nhiều giáo viên dạy văn ở miền núi quan tâm, trăn trở nhưng chưa tháo gỡ được. 
Thứ hai là học sinh vùng núi có khoảng cách xa về vốn sống, tầm văn hoá, tầm hiểu biết. Trong khi chất liệu, hình tượng, ngôn ngữ để xây dựng những áng thơ bất hủ mà các em học trong nhà trường hầu hết là hình tượng quen thuộc của người kinh, người miền xuôi nhưng với các em học sinh vùng núi, đặc biệt lại là người dân tộc thì không biết. Ví dụ: người miền xuôi nói “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo” là biểu hiện cho tình yêu tha thiết, lòng kiên quyết vì người yêu. Nhưng với người miền núi đó chỉ là chuyện nói đùa vì trong cuộc sống hàng ngày các em phải lên dốc, trèo đèo là chuyện thường tìnhlại còn những chất liệu hoàn toàn xa lạ với các em như mái đình, cầu ao, cái bống Vì vậy học sinh miền núi không cảm thụ được một cách sâu sắc hệ thống hình ảnh mang tính truyền thống phô diễn của nền văn học quốc gia, cho nên các em học yếu, học kém môn văn. Sự học kém này cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các em chưa hứng thú với môn văn 
Thứ ba, đa số giáo viên dạy văn chúng ta chưa am hiểu sâu sắc hệ thống chất liệu thiết kế mình đang giảng dạy. Rồi có những giáo viên dạy văn thì phân tích từ ngữ một cách sơ sài, chưa được chú ý và đầu tư đúng mức. Trong khi yêu cầu của việc đánh giá cho từ này là “ thần”, từ kia “đắt” hay “giàu gợi cảm”... luôn phải được khảo sát dựa trên cơ sở phân tích khoa học và thấu đáo về nhiều mặt, trong đó không thể thiếu mặt ngôn ngữ. Nhiều khi phân tích từ giáo viên còn dựa vào cảm tính chủ quan của bản thân, thiếu căn cứ khoa học Bên cạnh đó một số giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi còn quá dài và khó đối với học sinh. Khi được hỏi lý do vì sao trong giờ học các em không phát biểu, nhiều em cho rằng câu hỏi quá khó, nên các em không trả lời được. 
Hơn nữa, với một chương trình Ngữ văn trong nhà trường dày đặc như hiện nay, thời gian phân phối chương trình nhiều bài không phù hợp như dung lượng kiến thức lớn mà thời lượng ngắn, thầy cô thì không đủ thời gian để truyền đạt cho học sinh niềm đam mê văn học mà cứ phải vội vàng giảng một cách sơ sơ chung chung về tác phẩm. Kết quả là học sinh cũng chỉ được tiếp cận tác phẩm ở bề mặt. Trong khi những tác phẩm đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa đều là những tác phẩm đã qua sự chọn lọc của thời gian và bao thế hệ người đọc cho nên đều có giá trị nhân văn sâu sắc, là mảnh đất màu mỡ của tâm hồn. Nhưng với một thời gian hạn hẹp như vậy giáo viên và học sinh không thể cày sâu tới những lớp nghĩa sâu trong tác phẩm. Kết quả là những cái cây mọc trên cánh đồng màu mỡ nhưng lại không thể chạm tới lớp đất màu mỡ đầy dinh dưỡng để chúng lớn lên thành những cây to xanh tốt. 
Với kinh nghiệm 8 năm dạy học, tôi nhận thấy rằng cần phải cải tiến để nâng cao khả năng cảm thụ và hiểu tác phẩm thơ cho học sinh vùng cao để các em có sự phát triển đồng bộ với các bạn khác. Nếu không, các em sẽ rất lơ là trong việc học tập và bồi dưỡng bộ môn Ngữ Văn. Vậy, giải pháp nào để khắc phục tình trạng đó? Tôi nghĩ rằng mỗi người sẽ có những hướng làm khác nhau, còn riêng tôi với kinh nghiệm của mình tôi sẽ thực hiện một số giải pháp dưới đây. 
CHƯƠNG III: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
	Với kinh nghiệm của mình qua các năm giảng dạy ở trường tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng hiểu và cảm thụ thơ cho học sinh lớp 10 như sau:
I. Giải pháp cụ thể:
Tác phẩm văn chương là sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Bản chất của tác phẩm văn chương là một hệ thống mở mà ở mỗi người lại có những cảm nhận khác nhau. Các em học thơ là phải được sống trong tác phẩm với những cảm nhận của riêng mình chứ không phải sống trong cái khuôn vàng thước ngọc có sẵn với những cảm nhận áp đặt của người khác. Và nếu như xã hội đang thay đổi từng ngày từng giờ cùng với những quan niệm về lối sống, đạo đức, thẩm mĩ... của con người thì tại sao lại bắt các em phải coi giá trị của những tác phẩm văn học là bất biến, là trường tồn mãi với thời gian. Văn học không thể mang trong nó những đặc tính có tính chất xác định rõ ràng. Giá trị của tác phẩm văn học không bất biến theo thời gian mà có những giá trị biến đổi trong những thời đại khác nhau, trong những thế hệ hay những con người khác nhau. Chính phương pháp giáo dục áp đặt bắt học trò phải cảm nhận văn học theo khuôn khổ đã giết chết sự hứng thú học văn của các em học sinh. Vì vậy, dạy văn nói chung và tác phẩm thơ nói riêng phải tạo điều kiện cho học sinh qua môi giới của từ ngữ tái hiện được hình tượng nghệ thuật, nội dung tác phẩm trong tâm trí các em. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Bình từng nói “ Quá trình dạy tác phẩm chỉ có thể thực hiện được một cách có hiệu lực thật sự khi nào nội dung tác phẩm được tái hiện trong trí tưởng tượng và trở thành một sự kiện trong tâm hồn” các em. Bởi vì một khi các em chưa tái hiện được hình ảnh trong tâm trí của mình thì tác phẩm vẫn là một hiện tượng xa lạ, bên ngoài. Nhưng để các em cảm thụ được, rồi cảm thụ tốt thì người giáo viên phải kiên trì, thực hiện từng bước một: 
1. Làm giàu ngôn ngữ:
 Ngôn ngữ là cái vốn khởi đầu cho những ai muốn cảm thụ được môn văn và học giỏi văn. Và cảm thụ tác phẩm văn chương thông qua thế giới hình tượng, kể cả quan điểm của tác giả tất cả đều phải bắt đầu hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm vì “ trong dạy văn thì từ là rất quan trọng phải hiểu tất cả ý nghĩa của từ, ý nghĩa sâu xa, ý nghĩa phong phú, phải hiểu tất cả các cách dùng từ”. Do đó việc giải toả hàng rào ngôn ngữ trong quá trình dạy tác phẩm thơ là nhiệm vụ, là yêu cầu đối với tất cả các giáo viên dạy văn. Và đối với những trường THPT ở vùng cao có nhiều học sinh dân tộc thì nhiệm vụ đó, yêu cầu đó cần phải được chú trọng hơn, sát hợp hơn. Để làm được điều ấy, người giáo viên chúng ta phải như con ong chăm chỉ giúp đỡ từng em một. Có thể thực hiện một số cách làm như sau: 
- Cần tạo ra trong các nhà trường một môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt. Ở trường vùng cao số học sinh dân tộc rất đông, hầu hết các em mới xuống học ngại

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_kha_nan.doc
  • docBao cáo tóm tắt hiệu quả SK - Hương.doc
  • docbáo cáo thành tích 2014.doc
  • docDon de nghi cong nhan SKKN.doc