Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học

Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.

 Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đạt, truyền đạt trong những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vủ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố, Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần. Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học, có những hiểu biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống xung quanh phong phú, hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các thể loại thơ, chuyện. Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình tượng, nhà sư phạm còn cần giúp trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn học như: Thơ, chuyện, nhân vật, hình ảnh , giúp trẻ trao đổi những điều đã được nghe và bộc lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ.

 Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân vật; giữa lời kể, lời thuật và ngôn ngữ nhân vật; Giữa không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động văn học, nhằm giúp trẻ nhận ra tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm của tác phẩm.

 Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỹ năng đọc và kể tác phẩm.

 

doc 20 trang hoathepmc36 28/02/2022 7634
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO GD-ĐT KRÔNG ANA
TRƯỜNG MẪU GIÁO HOA CÚC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ HỌC TỐT MÔN 
LÀM QUEN VĂN HỌC
Họ và tên: Nguyễn Thị Lệ Nga
Đơn vị công tác: Trường Mẫu giáo Hoa Cúc
Trình độ đào tạo: Đại học sư phạm mầm non
Môn đào tạo: Giáo dục mầm non
Krông Ana, tháng 03 năm 2015
MỤC LỤC
I.Phần mở đầu :.............................................................................................................3
I.1.Lý do chọn đề tài:...................................................................................................... 3
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài :.................................................................................3
I.3. Đối tượng nghiên cứu :............................................................................................ 4
I.4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu:....................................................................................4
I.5.Phương pháp nghiên cứu :......................................................................................... 4
II.Phần nội dung :..........................................................................................................5
II.1.Cơ sở lí luận :........................................................................................................... 5
II.2.Thực trạng :...............................................................................................................6
II.3.Giải pháp, biện pháp :.............................................................................................10
II.4.Kết quả :..................................................................................................................17
III.Phần kết luận, kiến nghị :.....................................................................................18
III.1.Kết luận :.............................................................................................................. 18
III.2.Kiến nghị :............................................................................................................ 18
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................20
 	I. Phần mở đầu
I.1. Lý do chọn đề tài:
- Giáo dục mầm non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, chiếm một vị trí rất quan trọng. Giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người.
 Thông qua hoạt động dạy và học dưới hình thức như tạo hình, hoạt động với đồ vật, khám phá khoa học sẽ giúp phát triển trí tuệ, óc sáng tạo, nhân cách con người “Làm quen văn học” là một hoạt động không thể thiếu được đối với trẻ ở lứa tuổi Mầm Non, vì thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là loại hình nghệ thuật đặc sắc đối với đời sống con người. Đặc biệt nó rất gần gũi với trẻ thơ. Từ buổi ấu thơ ấy trẻ đã lớn lên bằng những tiếng ru “ầu ơ” và cũng lớn lên bằng những câu câu chuyện thần tiênvà đó cũng là cánh cửa mở ra chân trời nhận thức cho trẻ.
 Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững biết đi, tập nói, đến lúc trẻ biết viết, biết đọc thì văn học là chiếc cầu nối, là phương tiện dẫn dắt trẻ. Ca dao, chuyện kể là tấm gương mẫu mực về lời ăn, tiếng nói cho trẻ học tập là phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu mến bạn bè, yêu cái thiện, cái đẹp, ghét cái ácvà còn là phương tiện hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng ở trẻ. Chính vì thế để đạt được mục đích của môn học “Làm quen văn học” bản thân tôi đã nghiên cứu suy nghĩ tìm ra “Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học” với mục đích giúp trẻ dễ dàng hơn trong việc cảm nhận ngôn ngữ nghệ thuật của thơ chuyện và biết thể hiện nó bằng chính ngôn ngữ, hành động của trẻ.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Bậc hoc mầm non là nền móng kế tiếp sự phát triển của bậc tiểu học. Chính vì vậy chất lượng Dạy - Học trong trường mầm non có ý nghĩa hết sức quan trọng. Để việc dạy và học đối với học sinh đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số  có hiệu quả. Việc đầu tiên đối với giáo viên dạy vùng có học sinh đồng bào dân tộc thiểu số là phải duy trì tốt sĩ số hàng ngày. Có như vậy mới đảm bảo và nâng cao được chất lượng dạy và học trong nhà trường và ngành giáo dục trong giai đoạn đổi mới của đất nước ngày nay.
Trong công tác giáo dục trẻ Mầm non thì việc phát triển ngôn ngữ cho là việc làm thường xuyên không thể thiếu. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp và dùng ngôn ngữ để bày tỏ nguyện vọng của mình đồng thời ngôn ngữ là công cụ của tư duy, vì vậy việc phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp không thể tách rời giữa các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Qua các năm học bản thân tôi thấy rằng môn làm quen văn học có tầm quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua đọc thơ, kể chuyện làm giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn đạt mạch lạc. Các tác phẩm văn học chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi cô biết chuyển tải được tư tưởng, cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua các hình thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ phát huy được tính tích cực, độc lập, tự tin, sáng tạo, hình thành tư duy, khả năng ghi nhớ có chủ định.
 I.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp lá phân hiệu Buôn Trấp.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Học sinh lớp lá 5, 6 Trường Mẫu giáo Hoa Cúc
Làm quen tác phẩm văn học cho học sinh nói chung và trẻ đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có lô gíc, có trình tự, chính xác và có hình ảnh nội dung.
 I.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là việc làm thường xuyên không thể thiếu. Văn học còn có tác dụng về mọi mặc đối với trẻ như: Ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể lực và đặc biệt là ngôn ngữ. 
- Qua thực tế, thấy được khả năng làm quen văn học của trẻ ở phân hiệu tôi còn hạn chế. Vì vậy tôi rất băn khoăn là phải làm thế nào để nâng cao chất lượng đọc, kể diễn cảm, ngôn ngữ mạch lạc của trẻ, qua nhiều lần tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, suy nghĩ, cùng với sự nỗ lực của bản thân, tôi mạnh dạn thực hiện các phương pháp nhằm nâng cao chất lượng môn làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ như sau 
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu :
 	* Phương pháp trò chuyện :
 	* Phương pháp quan sát :
 	* Phương pháp dự giờ : 
 * Phương pháp điều tra:
II. Phần nội dung
	II.1. Cơ sở lí luận.
 Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 5 tuổi, đây là giai đoạn cuối tuổi mẫu giáo chuẩn bị bước vào lớp 1 nên cần phải rèn luyện những kỹ năng cơ bản Giáo dục có tầm quan trọng rất lớn đối với con người nhất là tuổi mầm non khi mới đến trường, đòi hỏi những nhà giáo dục trẻ phải là người có đạo đức, mẫu mực, có trình độ, yêu nghề, mến trẻ. Vì vậy môn làm quen văn học là một môn vô cùng quan trọng đối với trẻ mầm non.
Từ đó tôi nhận thấy rằng bộ môn làm quen văn học có tầm quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua đọc thơ kể chuyện làm giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn đạt mạch lạc. Các tác phẩm thơ chuyện chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi cô biết chuyển tải được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua các hình thức nghệ thuật thật hấp dẫn, phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ phát huy được tính tích cực cá nhân- tự tin- độc lập- sáng tạo- hình thành tư duy- khả năng ghi nhớ có chủ đích, những tình cảm đạo đức tốt đẹp có khả năng hoạt động nghệ thuật, sáng tạo. 
- Văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt gãy gọn biết sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ. Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ biết yêu quý người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường nhịn em nhỏ.
Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ làm quen với văn học là môn học không thể thiếu trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học là vấn đề quan trọng trong đổi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm non.
	Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
	Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đạt, truyền đạt trong những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vủ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố,Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần. Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học, có những hiểu biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống xung quanh phong phú, hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các thể loại thơ, chuyện. Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình tượng, nhà sư phạm còn cần giúp trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn học như: Thơ, chuyện, nhân vật, hình ảnh, giúp trẻ trao đổi những điều đã được nghe và bộc lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ.
	Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân vật; giữa lời kể, lời thuật và ngôn ngữ nhân vật; Giữa không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động văn học, nhằm giúp trẻ nhận ra tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm của tác phẩm.
	Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỹ năng đọc và kể tác phẩm.
	II.2. Thực trạng
Tổ dân phố Buôn Trấp là một đơn vị thuộc vùng đặc biệt khó khăn.Với trên 50 % dân
số trong địa bàn là người dân tộc Ê Đê. Là vùng thuần nông, tỷ lệ hộ đói nghèo và cận nghèo cao. Trình độ dân trí tương đối thấp vì thế việc nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ học tập của một bộ phận không nhỏ người dân trong xã chưa cao.
Qua quá trình công tác nhiều năm trên địa bàn mà đa số học sinh là người dân tộc thiểu số tôi nhận thấy:
a. Thuận lợi, khó khăn
 	* Thuận lợi:
Trong năm học vừa qua được sự quan tâm của nhà trường, lớp lá 5 của tôi có 2 cô/lớp
Nhìn chung giáo viên đều nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm, yêu nghề, mến trẻ quan tâm chăm sóc và giáo dục trẻ, giáo viên được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đầy đủ, phòng học rộng, thoáng, bàn ghế đẹp, đúng quy cách, đồ dùng đồ chơi phong phú.
Phòng giáo dục, nhà trường luôn quan tâm tới mọi hoạt động của giáo viên nhất là việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Các bậc phụ huynh đã có sự quan tâm đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ, vì vậy hầu hết trẻ trong lớp đều nhanh nhen, tích cực.
* Khó khăn:
Về phía học sinh:
Học sinh còn bỡ ngỡ khi đến trường đến lớp cũng như tham gia vào các hoạt động học tập và vui chơi. Đối với học sinh dân tộc vốn Tiếng Việt của các cháu còn nghèo nên giao tiếp của các cháu còn nhiều hạn chế. Do đó khi bước vào lớp lá kiến thức về Tiếng Việt của các cháu như một trang giấy trắng. Giáo viên rất vất vả trong quá trình truyền thụ kiến thức cho các cháu vì người giáo viên vừa phải dạy Tiếng Việt kết hợp dạy kiến thức cho học sinh. Bằng ngôn ngữ Tiếng Việt song vốn từ của các em cũng chưa được phong phú, khả năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp đôi khi chưa chính xác như cách dùng từ, nói thành câu trong giao tiếp thông thường. Do vốn từ còn hạn chế nên các cháu thường rất khó khăn trong việc diễn đạt một vấn đề một cách rõ ràng để người nghe dễ hiểu.
Về phía giáo viên:
 Do bất đồng ngôn ngữ nên trong quá trình giảng dạy giáo viên thường rất vất vả nhất là đối với các cháu học sinh mới chưa qua chương trình lớp chồi.
Về phía gia đình học sinh.
Do trình độ dân trí tương đối thấp cộng với nhiều hủ tục lạc hậu như làm cúng; làm ma, kiêng  gia đình thường cho con em nghỉ học không lý do. Đời sống của đa số nhân dân trong vùng còn gặp nhiều khó khăn nên vào mùa nương rẫy một bộ phận nhỏ học sinh còn hay nghỉ học để đi rẫy với bố mẹ dẫn đến tỷ lệ chuyên cần của các em chưa cao. Phần đa các bậc cha mẹ thường không quan tâm đến việc học tập của con cái mà phó thác toàn bộ cho các cô giáo trong trường. Sự đầu tư cho con cái về thời gian cũng như sách vở, đồ dùng học tập hầu như là không có. Mặt khác, trong sinh hoạt gia đình hầu như các thành viên trong gia đình không bao giờ sử dụng tiếng phổ thông mà hoàn toàn sử dụng tiếng mẹ đẻ trong quá trình giao tiếp. Vì vậy, các em thường rất ngại khi giao tiếp bằng tiếng phổ thông.
b. Thành công, hạn chế
*Thành công :
 - Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã thực hành thực tế tại phân hiệu tôi và hiệu quả đem lại sau những lần áp dụng các biện pháp là trẻ phân hiệu tôi rất hứng thú và phấn khởi khi được học môn làm quen văn học trẻ biết đọc thơ, kể chuyện theo tranh minh họa diễn cảm thể hiện cảm xúc của nhân vật 
*Hạn chế :
- Khi vận dụng đề tài này thì phải trải qua thực nghiệm tại lớp, tại thôn buôn đòi hỏi phải có sự hợp tác của phụ huynh và thời gian mà thời gian của giáo viên rất hạn chế.
Một số phụ huynh đồng bào dân tộc nhận thức còn kém không chịu hợp tác với cô giáo trong quá trình giáo dục trẻ.
c.Mặt mạnh, mặt yếu 
*Mặt mạnh :
- Khi tiến hành các biện pháp nhằm giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học đã giúp trẻ có khả năng phát triển ngôn ngữ một cách chính xác và đúng nhất, phát triển tốt về mặt ngôn ngữ từ đó trẻ sẽ phát triển tốt các mặt khác.
- Bên cạnh đó tôi cũng thường xuyên trò chuyện cùng trẻ để nắm bắt được các nguyên nhân làm cho trẻ phát âm không chính xác và tìm ra hướng khắc phục.
*Mặt yếu : 
 	- Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm chăm sóc đến con em mình . 
 	 - Khả năng hiểu biết của trẻ còn hạn chế vì một số cháu chưa được học lớp 3 - 4 tuổi nên còn nhút nhát và nói Tiếng Việt chưa rõ.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
+ Nguyên nhân.
- Khi cho trẻ làm quen với tác phẩn văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ đặc biệt là phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỷ năng đọc và kể tác phẩm..
- Do nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, qua việc cho trẻ tiếp cận với các tác phẩm văn học sẽ góp phần giúp trẻ phát triển về mọi mặt, nhất là phát triển về ngôn ngữ. 
- Một điều quan trọng để giúp tôi thành công trong việc tìm ra các giải pháp, biện pháp cho trẻ học tốt môn làm quen với tác phẩm văn học là hình thức tính chất tiết học của giáo viên, nếu đồ dùng đẹp, hấp dẫn, đồ dùng thay đổi liên tục sáng tạo mà hình thức tính chất tiết học khi được quan tâm đến thì kết quả tiết học sẽ rất cao và có hiệu quả hơn.
 - Trẻ Mầm Non không thể cảm nhận được nội dung nghệ thuật của bài thơ, câu chuyện, khi thiếu sự tác động của cô giáo và người lớn xung quanh. Bởi trẻ chưa biết đọc mà nhờ vào sự tổ chức, hướng dẫn qua giọng đọc kể của cô giáo làm cho tác phẩm văn học đến với các cháu trở thành nhân tố giúp trẻ phát triển tư duy, trí tưởng tượng, ngôn ngữ, thẩm mỹ hình thành nhân cách và giáo dục đạo đức cho trẻ.
+Yếu tố tác động.
 - Đa số là con em đồng bào dân tộc Ê đê khả năng nhận thức của trẻ không đồng đều, trẻ phát âm và nói Tiếng Việt chưa rõ, trẻ còn rụt rè, nhút nhát.
	e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao về chuyên môn của BGH nhà trường, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đầy đủ, phòng học rộng, thoáng, bàn ghế đẹp, đúng quy cách, đồ dùng đồ chơi phong phú. Bản thân tôi nhiều năm liền đều phụ trách lớp mẫu giáo lớn, tham gia tích cực vào các đợt thao giảng, sinh hoạt chuyên môn do phòng giáo dục và nhà trường tổ chức, từ đó bản thân tích lũy được một số kinh nghiệm để giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học. Vì tôi nghĩ cần phát triển tốt về mặt ngôn ngữ từ đó trẻ sẽ phát triển tốt các mặt khác. Do vậy mà tôi đã thực hiện thành công đề tài mà tôi đã chọn khi áp dụng vào giảng dạy ở lớp tôi phụ trách thì 100% trẻ chậm đã mạnh dạn tham gia vào các hoạt động, trẻ nói rõ ràng mạch lạc hơn, nói nhiều câu có nghĩa đầy đủ.
Nhưng bên cạnh đó nhận thức của một số phụ huynh về tầm quan trọng của việc rèn luyện các kỹ năng cần thiết để chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một chưa cao. Một số trẻ người đồng bào dân tộc ê đê còn nhút nhát, ngại giao tiếp phát âm Tiếng Việt không chuẩn. Vì vậy nên tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện đề tài này.
II.3. Giải pháp, biện pháp
	a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
- Nhằm giúp cho trẻ khả năng ghi nhớ, khả năng hiểu biết của trẻ và phát triển về mặt ngôn ngữ nói, phát âm của trẻ. Đây là một chuyên đề lớn, không kém phần quan trọng khi thực hiện chuyên đề này giáo viên cần nghiên cứu kỹ tài liệu chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên tham gia dự giờ các tiết dạy thơ, chuyện để đúc rút kinh nghiệm cho bản thân. 
 	 Từ đó tôi nhận thấy rằng việc phát triển ngôn ngữ cho học sinh dặc biệt là học sinh đồng bào dân tộc có tầm quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ. Qua đó giúp trẻ phát huy được tính tích cực cá nhân- tự tin- độc lập- sáng tạo- hình thành tư duy- khả năng ghi nhớ có chủ đích, những tình cảm đạo đức tốt đẹp có khả năng hoạt động nghệ thuật, sáng tạo. 
 - Để thu hút, lôi cuốn trẻ vào giờ học.
- Giúp trẻ nắm bắt được nội dung tiết học một cách chủ động.
- Giúp trẻ tiếp thu, củng cố những tri thức và kỹ năng một cách nhẹ nhàng.
- Giúp cho trẻ rất nhiều trong quá trình chơi trẻ sẽ phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
- Giúp trẻ phát triển trí nhớ, tập trẻ quan sát có chủ định để ghi nhớ, tập trẻ trả lời có lôgíc luyện đặt câu.
- Bằng nhiều hình thức tổ chức các hoạt động phong phú, hấp dẫn khác nhau càng gây hứng thú thu hút trẻ, trẻ càng dễ tiếp thu dễ nhớ lâu quên, nhẹ nhàng lĩnh hội kiến thức hơn. 
	Thường xuyên nghiên cứu kỹ các bài soạn, soạn bài trước khi giảng dạy.
	Làm, mua sắm, sưu tầm đủ đồ dùng, đồ chơi phong phú hấp dẫn với trẻ và đảm bảo tính khoa học .
 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
* Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo.
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết trong chương trình đổi mới Hiện nay, nếu cô tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu vào tạo môi trường bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số góc trong và ngoài lớp học thể hiện trên các mảng 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_hoc_tot_mon.doc