Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp giáo viên Tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp giáo viên Tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả

Để thực hiện mục tiêu trên thì việc tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày ở các trường Tiểu học là cần thiết. Đặc biệt là ở các trường HS 100% là người dân tộc H.Mông, học sinh chủ yếu là tiếp thu học tập tại trường, về nhà thường không có sự quan tâm của phụ huynh tạo thời gian cho con học, ôn bài. Làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy và hoạt động 2 buổi/ ngày mà vẫn đảm bảo được phương châm của giáo dục Tiểu học là “ Học nhẹ nhàng- tự nhiên- hứng thú- hiệu quả” ?

Dạy học 2 buổi/ ngày là phương thức bổ sung thêm thời gian cho việc học tập, hoạt động của HS ở trường. Dạy học 2 buổi/ ngày sẽ sử dụng hiệu quả thời gian tăng thêm ở trường để tổ chức các hoạt động giáo dục theo một chương trình, kế hoạch được điều chỉnh và mở rộng. HS tham gia thực hiện phương thức học cả ngày sẽ được học tập, hoạt động cả buổi sáng, buổi chiều tại trường vào các ngày trong tuần.

 Dạy học 2 buổi/ ngày là giải pháp tích cực để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện ở Tiểu học. Học 2 buổi/ ngày nhằm tăng thêm thời lượng học tập và rèn các kĩ năng cho học sinh trên một đơn vị kiến thức đồng thời có thời gian dành cho các hoạt động giáo dục tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường, giúp học sinh củng cố kiến thức và phát triển năng khiếu, tránh được tình trạng quá tải trong học tập, làm cho việc dạy học trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn và tránh được tình trạng dạy thêm, học thêm ở Tiểu học.

 

doc 25 trang cuonglanz2a 8292
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp giáo viên Tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PHẦN I
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học tốt ở bậc Trung học cơ sở.
Để thực hiện mục tiêu trên thì việc tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày ở các trường Tiểu học là cần thiết. Đặc biệt là ở các trường HS 100% là người dân tộc H.Mông, học sinh chủ yếu là tiếp thu học tập tại trường, về nhà thường không có sự quan tâm của phụ huynh tạo thời gian cho con học, ôn bài. Làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy và hoạt động 2 buổi/ ngày mà vẫn đảm bảo được phương châm của giáo dục Tiểu học là “ Học nhẹ nhàng- tự nhiên- hứng thú- hiệu quả” ? 
Dạy học 2 buổi/ ngày là phương thức bổ sung thêm thời gian cho việc học tập, hoạt động của HS ở trường. Dạy học 2 buổi/ ngày sẽ sử dụng hiệu quả thời gian tăng thêm ở trường để tổ chức các hoạt động giáo dục theo một chương trình, kế hoạch được điều chỉnh và mở rộng. HS tham gia thực hiện phương thức học cả ngày sẽ được học tập, hoạt động cả buổi sáng, buổi chiều tại trường vào các ngày trong tuần.
 Dạy học 2 buổi/ ngày là giải pháp tích cực để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện ở Tiểu học. Học 2 buổi/ ngày nhằm tăng thêm thời lượng học tập và rèn các kĩ năng cho học sinh trên một đơn vị kiến thức đồng thời có thời gian dành cho các hoạt động giáo dục tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường, giúp học sinh củng cố kiến thức và phát triển năng khiếu, tránh được tình trạng quá tải trong học tập, làm cho việc dạy học trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn và tránh được tình trạng dạy thêm, học thêm ở Tiểu học.
 Trước yêu cầu trên, thầy, cô, những người làm công tác sư phạm phải hiểu và phải tìm kiếm những giải pháp giáo dục sao cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của các em thông qua các hoạt động vừa học- vừa chơi trong ngày do nhà trường tổ chức. Đó chính là sự trăn trở không chỉ của các thầy, cô mà còn là của các nhà quản lý ngành giáo dục, của các bậc phụ huynh và của cả xã hội.
 Vậy làm thế nào để tổ chức dạy- học 2 buổi/ ngày có hiệu quả Để trả lời được câu hỏi trên tôi đã chọn nghiên cứu "Một số biện pháp giúp giáo viên Tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả”. 
PHẦN II
PHẠM VI VÀ THỜI GIAN ÁP DỤNG
Phạm vi áp dụng : Giáo viên, học sinh tại trường tiểu học Bản Phố - Bắc Hà .
Thời gian áp dụng:Kinh nghiệm được áp dụng thực hiện trong năm học 2013- 2014 
PHẦN III
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC2 BUỔI /NGÀY 
TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC BẢN PHỐ
1.Thuận lợi:
1.1. Giáo viên.
- 100% đội ngũ giáo viên của nhà trường có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn và đều được tham gia bồi dưỡng hè có nội dung về dạy học 2 buổi/ ngày.
- Phần đa giáo viên nhiệt tình, có kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học có hiệu quả.
1.2. Cơ sở vật chất.
- Cơ sở vật chất, điều kiện dạy học, đồ dùng trang thiết bị được cấp trên đầu tư, hỗ trợ tương đối đầy đủ nên việc dạy học của thầy và trò diễn ra khá thuận lợi.
1.3. Học sinh.
- Đa số các em học sinh ngoan, ham học và biết đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập. Các em được trang bị tương đối đầy đủ sách vở và đồ dùng phục vụ học tập.
	2. Khó khăn:
 2.1. Giáo viên.
- Một số giáo viên còn lúng túng, chưa tự tin với việc lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động học tập cho từng đối tượng học sinh ở buổi 2.
- Thời gian giành cho việc soạn bài, nghiên cứu của giáo viên ở buổi 2 còn ít; không có tiết thiết kế, bài soạn sẵn cho từng tiết, giáo viên phải căn cứ vào đối tượng HS để lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp.
- Một số giáo viên chưa có sự đầu tư cho việc soạn giảng buổi 2; lựa chọn nội dung đơn điệu, chưa phong phú các dạng bài tập, chưa thể hiện sự phân hóa học sinh theo vành đai chất lượng.
- Hình thức dạy buổi 2 nghèo nàn, chưa phong phú, chưa hấp dẫn, chưa tạo được hứng thú cho học sinh.
- Còn một số GV chưa coi trọng việc dạy buổi 2, xem dạy buổi 2 như là giờ làm bài tập của học sinh và học sinh giải quyết hết bài tập đó là hết nhiệm vụ của tiết học. Còn trong tiết đó, có bao nhiêu học sinh cần rèn kiến thức, kĩ năng? Cần rèn đến đâu? Các em có hứng thú học không? Có nhu cầu học hay không thì giáo viên ít chú ý đến vì thế chưa giúp được học sinh yếu rèn kiến thức, kĩ năng cũng như phát triển được năng lực cho học sinh khá giỏi. Vì vậy chất lượng dạy học buổi 2 chưa được theo mong muốn.
2.2. Học sinh.
- Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học sinh như: (Giỏi, khá,TB, yếu, khuyết tật, cá biệt...) nên GV gặp nhiều khó khăn khi thiết kế bài dạy và lúng túng khi dạy học theo đối tượng.
- Một số HS yếu, ngại học, chóng chán, ỉ lại.
- Một bộ phận không ít phụ huynh học sinh chưa quan tâm tới việc học của con em mình, không cho con đi học buổi 2 ở nhà trông em, đi làm nương, cắt cỏ ngựa vv
2.3. Cơ sở vật chất.
- Chưa có phòng đa chức năng nên việc tổ chức các hoạt động tập thể cũng gặp nhiều khó khăn.
- Tài liệu tham khảo còn ít, còn thiếu các phương tiện nghe, nhìn
 Để khắc phục những khó khăn trên tôi đã nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm giúp giáo viên Tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả hơn.
PHẦN IV
NHỮNG BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP ÁP DỤNG
Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và phụ huynh.
	Tuyên truyền cho đội ngũ giáo viên có nhận thức đúng đắn về việc tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày thông qua nói chuyện, sinh hoạt chuyên môn, qua hội đồng giáo dục, qua dự giờ đồng nghiệp để họ thấy được tầm quan trọng của việc tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong nhà trường.
 Phân tích cho giáo viên hiểu rõ về mục đích, ý nghĩa của việc dạy 2 buổi/ ngày để từ đó định hướng cho mình trong công tác chuẩn bị và thiết kế bài dạy phù hợp.
Thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa, các phong trào thi đua của nhà trường để tuyên truyền cho các bậc phụ huynh thấy được tầm quan trọng của dạy học 2 buổi/ ngày và sự phối kết hợp của phụ huynh trong công tác giáo dục của nhà trường là rất quan trọng.
Biện pháp 2: Xác định số tiết tăng thêm cho các môn, các khối lớp và phân loại đối tượng học sinh.
a) Xác định số tiết tăng thêm cho các môn, các khối lớp.
Trên cơ sở số tiết quy định theo QĐ16/2016 của Bộ GD&ĐT, theo yêu cầu của chuẩn KTKN cho từng môn học, dựa vào hướng dẫn của ngành và các yêu cầu cụ thể, các kĩ năng cần giáo dục cho học sinh, lấy ý kiến từ tổ chuyên môn, Hội đồng chuyên môn để thống nhất thời lượng các tiết cần tăng thêm ở các môn học đảm bảo 35 tiết/ tuần trong đó bao gồm (Các tiết cần tăng thêm về các môn Toán, Tiếng Việt các môn tự chọn Ngoại ngữ, Tin, Rèn kĩ năng sống; Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ).
Trên cơ sở định lượng số tiết tăng thêm đó, chỉ đạo các tổ khối chuyên môn chủ động lập kế hoạch vừa đảm bảo nội dung cần rèn luyện, vừa đảm bảo lượng thời gian quy định và phù hợp với đặc thù riêng của từng lớp.
Thời lượng dạy theo phân loại đối tượng học sinh được bố trí hợp lý theo từng khối lớp: Khối lớp 1,2 dành 2 tiết riêng cho bồi dưỡng các môn năng khiếu, tự chọn và phụ đạo cho học sinh yếu. Khối 3,4,5 bố trí thời khóa biểu cho phân hóa đối tượng vào 2 tiết tăng buổi của Toán và Tiếng Việt.
b) Rà soát và phân loại đối tượng học sinh.
- Mỗi lớp học đều có nhiều đối tượng học sinh. Muốn dạy đến từng học sinh và dạy theo nhu cầu người học một cách hợp lý thì việc đầu tiên phải tìm hiểu và phân loại được đối tượng học sinh. Đây là việc làm rất quan trọng vì khi phân loại được học sinh của lớp, giáo viên mới hình dung ra nhóm học sinh nào cần gì để giáo viên để giáo viên có định hướng và kế hoạch phù hợp.
+ Kết hợp với kết quả của năm học trước và chất lượng khảo sát đầu năm học để giáo viên phân loại học sinh theo từng đối tượng: Yếu, trung bình, khá giỏi.
+ Tìm hiểu năng lực sở trường của HS qua giao tiếp, qua các hoạt động 
Biện pháp 3: Lập thời khóa biểu phù hợp và định hướng nội dung giảng dạy cho số tiết tăng thêm.
* Thời khóa biểu: Xây dựng thời khóa biểu cụ thể đến từng giáo viên và từng lớp, từng đối tượng học sinh trên cơ sở thời khóa biểu đó giáo viên xây dựng kế hoạch giảng dạy cho cá nhân mình theo tuần, tháng và học kì.
+ Thời khóa biểu chính gồm phần cứng cho toàn bộ các lớp, đây là thời khóa biểu được định lượng hóa cho các tiết học chính khóa và một số tiết tăng buổi tự chọn cố định.
+ Thời khóa biểu được mềm hóa, đây là thời khóa biểu được sắp xếp luân chuyển theo từng tháng. VD:1 tuần có 1 tiết Tiếng Việt và 1 tiết Toán có thể thay thế luân chuyển cho nhau tùy theo lượng kiến thức bài học cần rèn luyện bổ sung trong tuần.
+ Hai tuần có 1 buổi năng khiếu tự chọn cho khối 1,2 ( gồm: Âm nhạc, Mĩ thuật, Tiếng Anh). Một tháng có một buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp theo khối.
*Định hướng nội dung giảng dạy:
Chương trình dạy chính khóa được dạy phân bố thành bài, đan xen trong suốt chương trình, không tường minh thành dạng cụ thể. Vì thế, nhà trường kết hợp với tổ khối chuyên môn tiến hành nghiên cứu kiến thức theo từng khối lớp và phân định kiến thức chính khóa thành các phần trọng tâm. Từ đó định ra các mảng, dạng tăng buổi cho từng nhóm đối tượng học sinh trong từng khối cụ thể như sau:
* Các môn Toán và Tiếng Việt:
+ Khối 1-2: Tập trung vào lượng kiến thức trong tuần, hệ thống bổ sung kiến thức học sinh còn gặp khó khăn. Yêu cầu giáo viên dạy chắc kiến thức cơ bản, chú trọng đến đối tượng học sinh yếu sao cho học sinh đọc thông, viết thạo, biết tính toán trong phạm vi 100. Chú ý đến rèn chữ viết cho học sinh.
+ Khối 3: Đây là lớp thu nhận kiến thức bản lề của toàn cấp học. Yêu cầu giáo viên dạy kĩ các kiến thức trọng tâm để các em thuận lợi trong việc tiếp thu kiến thức ở lớp trên. Dù kiến thức ở lớp 3 chưa tường mình thành dạng như lớp 4,5 nhưng đã xuất hiện. Bởi vậy, yêu cầu giáo viên phải nắm được chương trình toàn cấp học để xác định được điểm dừng của chương trình và cung cấp các mảng kiến thức phù hợp cho từng loại đối tượng. Chú ý hướng dẫn phương pháp tự học cho học sinh.
+ Khối 4,5; Dạy theo các mảng đã học nhưng phát triển theo hình thức chuyên sâu và mở rộng cùng với việc bổ sung một số kiến thức mới. Chú ý cách rèn phương pháp tự học và nghiên cứu tài liệu
- Đối với học sinh chưa đạt chuẩn ( còn yếu, kém) cần tập trung vào chuẩn kiến thức và kĩ năng cơ bản; giải quyết những kiến thức cơ bản mà học sinh chưa nắm vững, hay nhầm lẫn, hay quên; phân công bố trí giáo viên kèm cặp thêm và tổ chức một số sân chơi riêng.
- Đối với đội tuyển học sinh giỏi, đội tuyển giáo lưu: Được dạy lồng ghép trong các buổi phân hóa đối tượng; Ở các tiết này, các em được giao việc riêng và được hệ thống, tổng hợp kiến thức vào 2 buổi/ tháng theo lịch bồi dưỡng đội tuyển.
- Hoạt động ngoài giờ lên lớp: Căn cứ vào chủ đề năm học, chủ đề từng tháng, các nội dung giáo dục lồng ghép ( Giáo dục môi trường, giáo dục Quyền và bổn phận trẻ em, giáo dục An toàn giao thông, giáo dục kĩ năng sống) và tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp do Bộ GD&ĐT biên soạn, giáo viên lựa chọn những nội dung phù hợp chủ đề để tổ chức HĐNGLL cho học sinh
 ( Hoạt động thư viện, trò chơi dân gian, hát, múa, đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch, vẽ tranh, thể dục thể thao; Tổ chức các ngày Hội; Hoạt động kỉ niệm các ngày lễ lớn; Hoạt động tham quan du lịch; Hoạt động nhân đạo; Hoạt động giao lưu; Hoạt động môi trường; Hoạt động Đội, Sao; Hoạt động câu lạc bộ,). Lựa chọn hình thức tổ chức các hoạt động phong phú và sự tham gia tích cực của học sinh.
- Đối với việc rèn kĩ năng sống: Tập trung rèn kĩ năng sống cho học sinh mọi lúc, mọi nơi, lồng ghép trong các môn học và mọi hoạt động của nhà trường. Các kĩ năng cơ bản cần được quan tâm như cách cầm thìa, cầm đũa, cách mời người thân khi ăn; vệ sinh cá nhân, cách chào hỏi bạn bè, thầy cô kĩ năng tự chăm sóc bản thân, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau, kĩ năng giao tiếp, ứng xử các tình huống hàng ngày, ý thức xây dựng đoàn kết tập thể, vệ sinh sức khỏe, ăn uống. 
Biện pháp 4: Lựa chọn, phân công, bố trí giáo viên. 
Để tạo sự công bằng trong định mức lao động cho giáo và phân công cụ thể công việc cho từng nhóm giáo viên, ngoài việc phân công theo chuyên môn còn phải dựa vào năng lực, sở trường của từng người để phân giáo viên theo các nhóm.
+ Nhóm dạy học sinh giỏi: Là những giáo viên dạy được toàn cấp, có kinh nghiệm trong giảng dạy, năng lực chuyên môn vững chắc, có khả năng hệ thống hóa các mạch kiến thức, có ý thức học hỏi và tìm tòi trong chuyên môn
+ Nhóm phụ đạo học sinh yếu: Là những giáo viên chịu khó, nhẹ nhàng, gần gũi và yêu thương học sinh, hiểu biết tâm lý độ tuổi, dễ thông cảm sẻ chia, kiên trì rèn luyện và giáo dục học sinh
+ Nhóm tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Là những giáo viên có năng lực tổ chức các hoạt động, sự kiện; vui vẻ, cởi mở, hòa đồng, có năng khiếu hát, múa, hiểu biết về vấn đề xã hội ( Gồm: Tổng phụ trách, giáo viên âm nhạc, cán bộ y tế học đường và một giáo viên dạy văn hóa có năng lực tổ chức các hoạt động tập thể).
+ Nhóm dạy các môn tự chọn: Gồm giáo viên Tiếng Anh.
+ Nhóm dạy các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng học sinh: Gồm BGH nhà trường và Hội đồng chuyên môn.
 Biện pháp 5: Nhân rộng tiên tiến điển hình
Đây là giải pháp có hiệu quả, giải pháp này sẽ phát huy tinh thần tương trợ và tính tự giác của mỗi giáo viên trong công tác dạy học 2 buổi/ ngày.
 Chỉ đạo, xây dựng và tổ chức các chuyên đề dạy học buổi thứ 2 các môn học, ở các khối lớp.
 Giao trách nhiệm cho lực lượng nòng cốt để giúp đỡ đồng nghiệp như dạy mẫu, dự giờ, rút kinh nghiệm... phát hiện những thiếu sót để bổ sung kịp thời.
	Biện pháp 6: Đa dạng hóa các phương pháp và hình thức dạy học
	Trong dạy học không có phương pháp nào là vạn năng, không có hình thức dạy học nào là tối ưu cả. Vì vậy chúng ta phải biết phối hợp các phương pháp và hình thức dạy học một cách linh hoạt để phát huy tốt vai trò chủ động, sáng tạo của học sinh. Nếu hình thức dạy học đơn điệu, nghèo nàn, học sinh sẽ rất ngại học, chán học. Bởi thế, bên cạnh việc chủ động chọn nội dung, thời lượng thích hợp thì giáo viên quan tâm đến việc làm phong phú các hình thức dạy học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh để phát huy tốt nhất vai trò chủ động, sáng tạo, ý thức tự học, tự rèn của học sinh. Chẳng hạn trong tiết dạy giáo viên có thể đan xen giữa hình thức học tập cá nhân, học nhóm, học cả lớp, góc khám phá; thay đổi các dạng bài tập trắc nghiệm, tự luận, câu đố, xen kẽ giữa việc dùng đồ dùng học tập như bảng con, phiếu bài tập, vở ô ly,Cụ thể có 1 số tiết trên lớp, một số tiết học ngoài thiên nhiên hay qua sân chơi trí tuệ, qua các cuộc thi,Thế nhưng dù ở hình thức nào, phương pháp nào cũng cần đảm bảo các yêu cầu sau:
	+ Không ảnh hưởng đến thời lượng của tiết học.
	+ Tạo niềm tin, ổn định tâm lý, tạo tâm thế, nhu cầu học cho học sinh.
	+ Cách thức dạy học kết hợp với nghệ thuật chủ nhiệm phù hợp với tính cách, năng lực, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh từng học sinh để mọi học sinh đều thích học.
 Vị dụ: Luyện Tiếng Việt ( Lớp 3)
Bài: Ôn về các kiểu câu, nhân hóa, dấu phẩy.
I. Mục tiêu.
- Học sinh cả lớp:
 + Củng cố hiểu biết về các kiểu câu Ai- làm gì? Ai- là gì? Ai- thế nào? ( Thông qua các mô hình) và thành phần câu ( Thông qua các câu hỏi).
 + Củng cố hiểu biết về nhân hóa và rèn luyện kĩ năng sử dụng biện pháp nhân hóa.
 + Ôn luyện về dấu phẩy.
- Học sinh khá giỏi: Ngoài những yêu cầu chung, học sinh khá giỏi tổng hợp được nhiều kiến thức, kỹ năng trong một đơn vị và luyện khả năng tưởng tượng, liên tưởng, phản ứng nhanh.
II. Chuẩn bị:
- Học sinh: Bảng con, phấn, 
- Giáo viên: Hoa điểm 10, 3 bảng nhóm.
III. Các hoạt động dạy học:
* Hoạt động 1: Học sinh làm bài cá nhân
- Giáo viên gắn bảng phụ đã ghi bài 1 lên bảng.
Bài 1: Gạch 1 gạch dưới bộ phận trả lời câu hỏi Ai; Gạch 2 gạch dưới bộ phận trả lời câu hỏi “ là gì?”, “ làm gì?”, “ thế nào?”.
a) Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
b) Khi được chăm sóc chu đáo, chị hồng nhung rất xinh tươi.
c) Suốt ba tháng hè, bác trống ngủ khì trên giá.
- Học sinh tự làm bài vào vở ô ly.
- Giáo viên chấm 1 số bài.
- Chữa bài: Cho học sinh chia sẻ để khắc sâu kiến thức. Chẳng hạn: 
H. Từng câu trên thuộc mẫu câu nào bạn đã học?
H. Trong 3 câu trên, câu nào sử dụng biện pháp nhân hóa? Câu nào sử dụng biện pháp so sánh? Vì sao bạn biết?...
H. Tại sao phải sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh?
H. Để người đọc, người nghe hiểu ý thì khi viết, khi nói bạn cần chú ý gì?
* Hoạt động 2: Trò chơi “ Ai tài nhân hóa”
Bước 1: Yêu cầu một học sinh có năng khiếu văn nghệ của lớp hát một bài trong đó có các con vật được nhân hóa ( VD: Chị ong nâu và em bé).
Bước 2: Học sinh nêu tên con vật được nhân hóa trong lời bài hát? Nêu từ ngữ thể hiện sự nhân hóa .
Bước 3: Chơi “ Ai tài nhân hóa” – Nhóm
+ Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm. Các nhóm thi đua với nhau.
+ Giáo viên nêu tên trò chơi và luật chơi.
+ Giáo viên nêu 1 từ chỉ đối tượng nhân hóa như: cây lúa, cây tre, mây, con cá, mầm câyTừng nhóm thảo luận nhanh, đưa ra 1 cụm từ hoặc 1 câu có cách nhân hóa đúng.
+ Giáo viên lần lượt ghi điểm qua các lượt thi.
+ Nâng cao mức độ phân hóa học sinh:
	Mức 1: Yêu cầu học sinh nói câu có đối tượng được nhân hóa nhưng hạn chế 1 trong 3 cách nhân hóa theo lệnh của trò chơi.
	Mức 2: Yêu cầu học sinh nói nhanh câu có dùng biện pháp nhân hóa câu đó có mẫu: Ai- làm gì?
+ Tổng kết trò chơi.
*Hoạt động 3: Thi điền dấu câu
 Bài 3: Điền dấu phẩy vào vị trí thích hợp trong câu sau:
 a) Bé Lan múa hát rất hay.
 b) Trước cổng trường cờ khẩu hiệu đã được căng lên.
c) Gió lớn làm những chị lúa ấp mình vào nhau e thẹn.
- Học sinh làm bài cá nhân vào vở.
- Chọn học sinh trung bình, yếu nêu kết quả- chữa bài, đổi vở kiểm tra chéo.
- Chia sẻ:
H. Tại sao bạn điền dấu phẩy ở vị trí đó?
H. Khi đọc gặp dấu phẩy bạn cần lưu ý gì?
- Cho học sinh đọc lại các câu văn đã được điền dấu .
- Yêu cầu cao hơn: Đọc câu có hình ảnh nhân hóa trong bài tập 3.
* Củng cố: Trò chơi “ Ai nhanh, ai đúng”
	- Nói câu theo mẫu Ai- thế nào? Có dùng hình ảnh nhân hóa và sử dụng dấu phẩy?
 Biện pháp 7: Giúp giáo viên lựa chọn nội dung buổi 2 phù hợp với đối tượng học sinh và dạy phân hóa theo đối tượng.
a) Lựa chọn nội dung kiến thức cho phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh.
Việc lựa chọn nội dung kiến thức cho từng tiết dạy ở buổi 2 là một công việc hết sức quan trọng và có ý nghĩa nhằm giúp giáo viên có định hướng trong quá trình giảng dạy (Tùy vào điều kiện và trình độ của học sinh lớp mình mà giáo viên cần linh hoạt vận dụng đưa nội dung kiến thức vào trong từng tiết học cho phù hợp).
Việc lựa chọn nội dung phải dựa trên nhu cầu của người học. Các nội dung đưa ra cho học sinh phải gắn với nhiệm vụ học tập tương ứng để đạt được mục tiêu của tiết học. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu dạy học thì hệ thống các bài tập phải được lựa chọn sao cho đa dạng và phong phú về nội dung, phải mang tính vừa sức và phù hợp với từng đối tượng học sinh. 
Khi lựa chọn nội dung cho dạy buổi 2 phải căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt của từng bài, từng phần và khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh ở buổi 1. Xem các em đã tiếp thu kiến thức ở mức độ nào? Những gì đã đạt được so với chuẩn và những gì cần bồi dưỡng thêm? Nắm bắt được những vấn đề đó thì giáo viên sẽ biết mình cần lựa chọn nội dung gì cho học buổi 2.
Cụ thể: 
+ Đối với học sinh yếu: Đây là học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản hay nói cách khác là các em chưa nắm được kiến thức theo chuẩn KTKN cần đạt. Với những học sinh này thì giáo viên cần chú ý hơn và hướng dẫn các em bằng những lời động viên, đưa ra hệ thống bài tập nhằm củng cố kiến thức cơ bản và câu hỏi gợi mở để các em nắm được chuẩn KTKN cần đạt. Giáo viên không ra thêm kiến thức mới cho các em.
+ Đối với học sinh trung bình: Qua tiết học chính khóa cơ bản các em đã nắm được nội dung kiến thức và biết vận dụng để làm các bài tập song các em cũng chỉ mới dừng lại ở tính rập khuôn, máy móc chứ chưa thành thạo và có kĩ năng làm bài. Với những học sinh này giáo viên cần đưa ra những nội dung kiến thức mang tính củng cố để hình thành kĩ năng vận dụng cho các em.
+ Đối với 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_giao_vien_tieu_h.doc