Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức

Cơ sở lí luận của vấn đề

 1. Kĩ năng sống là gì?

- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.

- Theo UNICEF, kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức hình thành thái độ và kĩ năng.

- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết, học làm người, học để sống với người khác, học để làm.

Từ những quan niệm trên có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống.

Quá trình dạy học tiết Đạo Đức là quá trình tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như : kể truyện theo tranh; quan sát hình ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lý tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, Thông qua các hoạt động đó sự tương tác giữa GV - HS, HS - GV, HS - HS được tăng cường và học sinh có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới.

2. Đạo đức và vị trí môn Đạo đức trong giáo dục.

2.1 Khái niệm về đạo đức

- Đạo đức (đạo: lẽ phải, đức: điều tốt lành) là nguyên lí phải theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội, tùy theo yêu cầu của chế độ chính trị và kinh tế nhất định. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản văn hóa và thanh niên, năm 2001)

- Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn nhất định mà có.

2.2 Vị trí của môn Đạo đức

Môn Đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng mà không một môn học nào có thể thay thế được. Bởi lẽ, chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học với hệ thống chuẩn mực hành vi đạo đức được quy định trong chương trình môn học này. Môn đạo đức thực hiện ba nhiệm vụ sau:

+ Hình thành cho học sinh ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức (tri thức và niềm tin), từ đó định hướng cho các em những giá trị đạo đức phù hợp với những chuẩn mực được quy định trong chương trình môn Đạo đức.

+ Giáo dục cho học sinh những xúc cảm, thái độ, tình cảm đạo đức đúng đắn liên quan đến các chuẩn mực hành vi quy định.

+ Hình thành cho các em những kĩ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực và trên cơ sở đó, rèn luyện thói quen đạo đức tích cực.

2.3 Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức

Đạo đức là một môn học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5 ở trường Tiểu học, nhằm giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Dạy học môn đạo đức kết hợp hài hòa giữa việc trang bị kiến thức với bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kĩ năng hành vi cho học sinh.

Bản thân nội dung môn Đạo đức chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kĩ năng sống như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử (với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh); kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi; kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ và tự quản lí thời gian, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở cộng đồng có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức

Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống qua môn đạo đức cho học sinh lớp 1dân tộc thiểu số nói riêng, cho học sinh bậc học phổ thông nói chung có tầm quan trọng rất lớn trong việc giáo dục học sinh những kĩ năng cần thiết khi các em mới bước vào lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học.

 

doc 18 trang hoathepmc36 01/03/2022 7842
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
 I. Đặt vấn đề	
 Như chúng ta đã biết giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ. Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng sống, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Trong trường học, việc giáo dục kĩ năng sống và rèn luyện sức khỏe cho học sinh là vấn đề hết sức cần thiết. Nó góp phần hình thành nhân cách cho các em, giúp các em tự tin chủ động, biết cách xử lý tình huống trong cuộc sống và quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy, sáng tạo.
Từ năm 2010 – 2011, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn học như: Tự nhiên và Xã hội, Tiếng Việt, đạo đức, lịch sử- Địa lí, Âm nhạc, Mĩ thuật. và các hoạt động ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu học. Tuy nhiên, để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Kĩ năng sống không phải tự nhiên có được mà phải hình thành dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành kĩ năng sống diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục.
Thực tế cho thấy, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động... Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống các em dễ bị lôi kéo các hành vi tiêu cực, bạo lực, lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian qua như: đua xe, nghiện hút, bạo lực, ăn chơi sa đoạ... chính là do các em thiếu những kĩ năng sống cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp... Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp trẻ có ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh.
Đối với học sinh lớp 1, là lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học, các em mới gia nhập cuộc sống nhà trường, chưa biết ứng xử với mọi người xung quanh, chưa biết tự tin trước đám đông, lúng túng khi gặp tình huống nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào Vì vậy, sáng kiến được thực hiện áp dụng cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn đạo đức ngay từ lớp học đầu tiên, bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân là vô cùng cấp thiết.
Giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức không những thể hiện ở nội dung môn học mà còn được thể hiện ở phương pháp dạy học đặc trưng của môn học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Qua đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi.
Thực tế cho thấy, khi xã hội ngày càng phát triển thì cha mẹ có rất ít thời gian chăm sóc con cái hoặc có xu hướng trái ngược là quan tâm thái quá, việc gì cũng muốn làm thay cho trẻ. Với học sinh lớp 1 đa số các em là người dân tộc sống tại địa bàn vừa bước chân vào môi trường học tập mới, các em chưa biết ứng xử với mọi người xung quanh, còn rụt rè, nhút nhát mà nguyên nhân bắt đầu từ thiếu kĩ năng sống.
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số nói riêng, cho học sinh bậc học phổ thông nói chung là vô cùng quan trọng. Và đạo đức là môn học có tiềm năng to lớn trong việc giáo dục kĩ năng sống cho Tiểu học.
Từ những thực tế trên, tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức”.
 II. Mục đích nghiên cứu
 Tìm hiểu thực trạng việc dạy lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số trong phân môn đạo đức. Trên cơ sở đó đề xuất rút ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và nêu lên giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong thời gian tới.
 Giúp học sinh có khả năng ứng xử trước các tình huống xảy ra trong cuộc sống như tự tin, tự phục vụ, mạnh dạn giao tiếp và hợp tác, trung thực, có khả năng tự giải quyết vấn đề.
 Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 I. Cơ sở lí luận của vấn đề
 1. Kĩ năng sống là gì?
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
- Theo UNICEF, kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức hình thành thái độ và kĩ năng.
- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết, học làm người, học để sống với người khác, học để làm.
Từ những quan niệm trên có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống.
Quá trình dạy học tiết Đạo Đức là quá trình tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như : kể truyện theo tranh; quan sát hình ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lý tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát,Thông qua các hoạt động đó sự tương tác giữa GV - HS, HS - GV, HS - HS được tăng cường và học sinh có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới.
2. Đạo đức và vị trí môn Đạo đức trong giáo dục.
2.1 Khái niệm về đạo đức
- Đạo đức (đạo: lẽ phải, đức: điều tốt lành) là nguyên lí phải theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội, tùy theo yêu cầu của chế độ chính trị và kinh tế nhất định. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản văn hóa và thanh niên, năm 2001)
- Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn nhất định mà có.
2.2 Vị trí của môn Đạo đức
Môn Đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng mà không một môn học nào có thể thay thế được. Bởi lẽ, chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học với hệ thống chuẩn mực hành vi đạo đức được quy định trong chương trình môn học này. Môn đạo đức thực hiện ba nhiệm vụ sau:
+ Hình thành cho học sinh ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức (tri thức và niềm tin), từ đó định hướng cho các em những giá trị đạo đức phù hợp với những chuẩn mực được quy định trong chương trình môn Đạo đức.
+ Giáo dục cho học sinh những xúc cảm, thái độ, tình cảm đạo đức đúng đắn liên quan đến các chuẩn mực hành vi quy định.
+ Hình thành cho các em những kĩ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực và trên cơ sở đó, rèn luyện thói quen đạo đức tích cực.
2.3 Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức
Đạo đức là một môn học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5 ở trường Tiểu học, nhằm giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Dạy học môn đạo đức kết hợp hài hòa giữa việc trang bị kiến thức với bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kĩ năng hành vi cho học sinh.
Bản thân nội dung môn Đạo đức chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kĩ năng sống như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử (với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh); kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi; kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ và tự quản lí thời gian, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở cộng đồng có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức 
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống qua môn đạo đức cho học sinh lớp 1dân tộc thiểu số nói riêng, cho học sinh bậc học phổ thông nói chung có tầm quan trọng rất lớn trong việc giáo dục học sinh những kĩ năng cần thiết khi các em mới bước vào lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học..
II. Thực trạng vấn đề	
1. Đặc điểm tình hình
Trường tiểu học Ea Bông có tổng số học sinh lớp Một là 66 em được chia thành 03 lớp, trong đó có 02 lớp nằm trên địa bàn vùng khó khăn của xã Ea Bông – huyện Krông Ana – tỉnh Đăk Lăk. Năm học 2018 – 2019, tôi được nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 1C, với 22 em và 100% là học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số. Trong số đó có nhiều gia đình có vợ, chồng hoặc cả vợ và chồng đi làm ăn xa. Có em bố mẹ ly hôn phải ở với ông bà từ khi còn nhỏ.
Thực tế, khi các em rời trường Mầm non và bước chân vào lớp 1, tất cả mọi nề nếp, giờ giấc học tập, sinh hoạt còn xa lạ chưa vào một khuôn khổ nhất định, các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến nhất là các em học sinh dân tộc thiểu số có sự chênh lệch rất lớn về kỹ năng sống so với các em học sinh ở vùng thuận lợi, khả năng giao tiếp, ứng xử của các em thấp, nhiều em rụt rè, nhút nhát, không tự tin, buông thả không điều chỉnh được hành vi của mình. Chính vì lẽ đó mà việc giáo dục kĩ năng sống cho các em lồng ghép vào môn học Đạo đức là rất cần thiết, để học sinh mạnh dạn hơn trước chỗ đông người, tự tin chủ động trong tình huống cũng như biết cách ứng xử đơn giản nhất trong đời sống hằng ngày.
 2. Những thuận lợi và khó khăn
 2.1 Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tổ khối và các thầy cô trong nhà trường thường xuyên trao đổi qua các tiết dạy tốt, dạy chuyên đề, dự giờ, sinh hoạt ngoại khóa tôi đã rút ra được nhiều điều bổ ích.
- Qua các phương tiện thông tin như: ti vi, đài, sách, báo.tài liệu giảng dạy.
- Lứa tuổi các em học mà chơi, chơi mà học nên các em rất dễ thâm nhập, tiếp thu năng động và sáng tạo.
2.2 Khó khăn
 Trường tiểu học Ea Bông là một trường thuộc vùng khó khăn có hai phân hiệu thuộc xã Ea Bông – huyện Krông Ana – tỉnh Đắk Lắk. Đa số các em là dân tộc thiểu số chủ yếu là dân tộc Ê – đê chiếm trên 70%. Trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ giáo viên trong tổ chưa đồng đều, kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Chất lượng giáo dục còn thấp.
Năm học 2018 – 2019, với tổng số học sinh là 66 em chia thành 3 lớp, trong đó học sinh dân tộc thiểu số là 51 em chiếm tỉ lệ 77,3%. Đa số phụ huynh không có nghề nghiệp ổn định, kinh tế khó khăn nên ít có điều kiện quan tâm các em. Phần lớn các em chưa được gia đình chú ý quan tâm bồi dưỡng vốn kinh nghiệm trong giao tiếp nên đến lớp các em thường hay nhút nhát. Mặc dù các em đã qua lớp Mầm non song trong thực tế các em còn hạn chế về ngôn ngữ, về kĩ năng giao tiếp, kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng tự phục vụ. Khi tôi nhận lớp, đã sau một thời gian học nhưng vẫn còn một số em đến lớp còn hay khóc. Gọi đọc bài không dám đọc, không dám xung phong phát biểu, nhiều em còn chưa biết nói lời thưa gửi, còn nói trống không, ngại giao tiếp với các bạn và thầy cô giáo.
 Các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô giáo và các bạn, nhiều em chưa nói được cụ thể họ và tên mình, họ tên bố mẹ, chưa phân biệt được anh em trong nhà với anh em họ. Một số học sinh gần như ngồi im, chưa biết nói đủ một câu, chưa có ý thức về học tập nghe giảng, chưa biết lĩnh hội kiến thức.
 Đa số các em là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn sử dụng cả hai ngôn ngữ: tiếng mẹ đẻ và Tiếng Việt, trong đó ngôn ngữ Tiếng Việt còn hạn chế và có nhiều khó khăn, các em nói tiếng phổ thông chưa rành nên khi giảng dạy Kĩ năng sống cho các em rất khó tiếp cận nhất là các kĩ năng giao tiếp, ứng xử đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh, kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở nhà có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức.. hầu như các em còn hạn chế.
 Nhà trường, đoàn đội chưa tổ chức được nhiều các hoạt động ngoại khóa như: Thi kể chuyện đạo đức, học tập tấm gương người tốt việc tốt để học sinh được thực hành hành vi đã học vào những tình huống cụ thể trong cuộc sống. Đối với bản thân là giáo viên chủ nhiệm, tôi thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn khá nhiều bỡ ngỡ về nội dung giáo dục, phạm vi giáo dục, chưa có kế hoạch cụ thể, rõ ràng nên chưa có được sự phối hợp đồng điệu giữa phụ huynh học sinh. Việc rèn kĩ năng sống qua môn đạo đức còn chưa được chú trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho các em chưa nhiều. Trước những khó khăn trên tôi luôn trăn trở làm thế nào giúp các em có được các kĩ năng cơ bản để vận dụng trong cuộc sống hằng ngày. Sau khi điều tra học sinh tôi tiến hành khảo sát phân các nhóm đối tượng như sau:
Năm
học
TS
HS
Kĩ năng
Biết nói năng lễ phép, tự tin, biết hợp tác
Bạo dạn trong giao tiếp nhưng nói trống không
Ngại giao tiếp, trầm lặng, nhút nhát
Học sinh học hòa nhập, giao tiếp chưa rõ và nhận thức chưa ghi nhớ được.
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu kì I
22
1
4,5
9
41
10
45,5
2
 9
 Điểm qua một số hành vi đạo đức của các em tôi thấy trạng thái chú ý không bền khi giao tiếp với thói quen ngại suy nghĩ, ngại động não, khả năng ghi nhớ chậm hình thành, khả năng tưởng tượng của các em thiếu sinh động nên tỉ lệ học sinh phát triển chưa toàn diện rất là ít, đa phần các em chưa tự tin trong giao tiếp còn rụt rè, nhút nhát, giao tiếp chưa rõ.
 Từ tình hình thực tế trên chúng ta phải biết đặc điểm tình hình của từng đối tượng học sinh và có các giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như trang bị cho học sinh những kĩ năng sống cơ bản thì mỗi giáo viên là một tấm gương sáng mẫu mực cho học sinh noi theo, giáo viên cần phải gần gũi, thường xuyên khuyến khích, tạo môi trường học tập công bằng, tôn trọng, động viên kịp thời để học sinh thích học, ham học. Giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã hội thông qua môn đạo đức. Phối kết hợp với gia đình trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các hoạt động Đội trong và ngoài nhà trường để quản lý và giáo dục học sinh.
Nhận thức rõ điều này, thấy những khó khăn cơ bản trên tôi đã thực hiện một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Một bài giáo dục kĩ năng sống thường được thực hiện theo 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Khám phá
Tìm hiểu kĩ năng hiểu biết của học sinh về những việc làm hoặc sự kiện diễn ra trong cuộc sống .
Giai đoạn 2: Kết nối
Giới thiệu thông tin, kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo “cầu nối” liên kết giữa cái đã biết và “cái chưa biết”.
Giai đoạn 3: Thực hành / Luyện tập
Tạo cơ hội cho người học vận dụng kiến thức và kĩ năng mới học vào hoàn cảnh, điều kiện có ý nghĩa.
Giai đoạn 4: Vận dụng
Nâng cao hơn mức độ vận dụng kiến thức và kĩ năng.
Điều chỉnh hiểu biết và kĩ năng còn sai lệch.
Luyện tập thực hành kĩ năng.
- Kĩ năng sống là nền tảng để hoàn thiện nhân cách của con người, nhằm đảm bảo cho mọi cá nhân có thể tồn tại, phát triển và khẳng định giá trị của mình trong cộng đồng. Đây không phải là trách nhiệm riêng của thầy cô giáo, ngành giáo dục mà đòi hỏi có sự chung tay góp sức của gia đình và xã hội.
 Môn Đạo đức 1 lồng ghép kĩ năng sống có 10 bài gồm 3 chủ điểm:
* Gia đình : 2 bài 
* Nhà trường : 3 bài
* Xã hội : 5 bài 
Qua quá trình khảo sát thực tế, sử dụng các phương pháp vấn đáp, phương pháp quan sát, tôi xin nêu ra một số biện pháp nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức như sau:
1. Biện pháp 1: Giáo viên là tấm gương sáng mẫu mực cho học sinh noi theo
 Rõ ràng, khi tôi được giao trách nhiệm làm chủ nhiệm một lớp, bản thân phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước nhà trường về lớp mình phụ trách, chịu trách nhiệm về mọi quyền lợi cũng như nghĩa vụ học tập, rèn luyện của từng học sinh trong lớp mình. Từ khâu hoạch định kế hoạch cho đến khâu điều hành thực hiện đều từ giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, trước hết bản thân tôi phải có năng lực tổ chức, phải có tình thương và trách nhiệm cao thì mới có thể hoàn thành tốt công tác của mình. Để học sinh nghe và làm đúng những yêu cầu của giáo viên, trước hết các em phải có niềm tin yêu vào thầy cô giáo. Muốn tạo được uy tín đó thì không chỉ có năng lực là đủ mà phải thực sự gương mẫu, là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, tất cả những cử chỉ, hành động của chúng ta trong con mắt trẻ thơ luôn là khuôn mẫu. Mọi vấn đề thầy cô giải quyết, mọi việc thầy cô làm, mọi điều thầy cô nói với các em luôn là đúng. Đặc biệt với học sinh lớp 1 các em nghe, làm theo thầy cô còn hơn ông bà, cha mẹ. Các em thường rất hay bắt chước thầy cô của mình từng nét chữ, lời nói đến cả cử chỉ, điệu bộ và nhất là cách ứng xử của cô trước các tình huống. Vì thế bản thân phải luôn mẫu mực trong mọi cử chỉ, hành động, lời nói, phải nghiêm minh, công bằng khách quan trong đánh giá học sinh, cần cụ thể gương mẫu về mọi mặt như: về trang phục và thời gian làm việc; về chào hỏi, xưng hô, xã giao, khi tiếp đón khách, tiếp dân, ứng xử trong sử dụng điện thoại, ứng xử trong liên hoan, chiêu đãi, ứng xử trong nhận và tặng vật lưu niệm, ứng xử đối với những bất đồng, mâu thuẫn, ứng xử trong công bố, tiếp nhận thông tin... Đặc biệt là trong cách xử lý công việc hàng ngày, bản thân tôi không dám tuỳ tiện theo kiểu “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột”; mà phải thấu đáo, đã nói là làm, làm đến nơi đến chốn và thật thấu tình đạt lý. Có như thế mới thuyết phục được học sinh, mới tập hợp được các em xung quanh mình cùng hoàn thành tốt kế hoạch đã định.
 Việc đánh giá học sinh cũng cần khách quan và công bằng.Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số nói riêng, việc các em được khen trước bạn bè, được cô giáo động viên kịp thời đúng lúc sẽ là động lực rất lớn giúp các em mạnh dạn, tự tin và hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện kĩ năng, ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch rèn luyện cho các em, hằng ngày các em được phân công theo dõi các bạn, ghi vào sổ đến cuối tuần, cuối tháng bình chọn ra những bạn thực hiện tốt, những bạn ngoan, luôn được tôi tuyên dương, khen thưởng. Cuối tháng, tôi luôn dành những phần quà nho nhỏ, bất ngờ cho các em. Khi thì chiếc bút chì hay những viên kẹo, những cục tẩy, viên phấn Tất cả chỉ là sự động viên, khích lệ các em và đó là động lực để các em có sự tiến bộ. Những học sinh chưa biết vâng lời tôi luôn nhắc nhở bằng cử chỉ nhẹ nhàng và cả tình thương yêu. Tôi cho các em thấy sự gần gũi trong mỗi việc làm. Khi đã xóa dần khoảng cách, việc giáo dục sẽ nhẹ nhàng hơn.
 Ví dụ: Vào đầu năm học hầu hết các em rất rụt rè khi vào lớp cũng như khi ra về chỉ im lặng không chào hỏi, xin phép cô giáo, cô hỏi cũng không nói. Trước những khó khăn đó, trong tiết học đầu tiên, tôi tổ chức cho các em làm quen nhau. Đầu tiên tôi tự giới thiệu mình với cả lớp sau đó cho từng em giới thiệu, hướng dẫn cho các em tỉ mỉ từng chi tiết khi đến lớp, khi đến nhà người khác, khi gặp nhau thì chào hỏi, khi nào ra về, khi muốn nghỉ học thì xin phép. Còn khi được giúp đỡ thì nói cảm ơn, khi mắc lỗi nói lời xin lỗi. Cứ như vậy cho từng cặp thực hiện các em quen dần dần. Và từ buổi học lần sau tôi đã được nghe lời chào hỏi xin phép của các em.
 2. Biện

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giao_duc_ki_nang_song.doc