Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh Tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh Tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa

Cơ sở lý luận.

Như chúng ta đã biết, năm học 2013 - 2014 là năm học tiếp theo toàn ngành giáo dục ta thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Ở trường trung học cơ sở giáo viên dạy học sinh các môn học khác nhau trên cơ sở trang bị cho học sinh hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, nhằm đào tạo đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có kỹ năng thực hành, năng động và sáng tạo

Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên những lớp cao hơn hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.

Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu:“Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.

 

doc 25 trang hoathepmc36 28/02/2022 8146
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh Tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
 Đường lối quan điểm của Đảng và nhà nước ta đã xác định mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người toàn diện để đáp ứng yêu cầu chung của đất nước - công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong đó, ngoại ngữ - Tiếng Anh là một trong những ngôn ngữ có vai trò như một phương tiện tích cực hỗ trợ hiệu quả nhất cho quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nước nhà. Vì vậy nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn Tiếng Anh nói riêng là một trong những mối quan tâm hàng đầu của sự nghiệp giáo dục hiện nay. Và điều đó được đặt biệt chú trọng hơn cho các đối tượng là học sinh ở bậc tiểu học - Người mới bắt đầu tiếp cận với ngoại ngữ.
Để thực hiện mục tiêu này cần có hỗ trợ của Đảng, nhà nước, ngành giáo dục, nhất là đội ngũ các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh học sinh góp sức.
 Trong bất kỳ một ngôn ngữ nào, vai trò của từ vựng cũng hết sức quan trọng. Có thể thấy một ngôn ngữ là tập hợp của các từ vựng. Không thể hiểu ngôn ngữ mà không hiểu biết từ vựng,hoặc qua các đơn vị bài học. Nhưng điều đó không phải chỉ hiểu những từ đơn lẻ, độc lập với nhau mà chỉ có thể năm vững được ngôn ngữ thông qua mối quan hệ biện chứng giữa các đơn vị từ vựng. Như vậy việc học từ vựng và rèn luyện kỹ năng sử dụng từ vựng là yếu tố hàng đầu trong việc truyền thụ và tiếp thu một ngôn ngữ nói chung và và tiếng Anh nói riêng.
 Vì từ vựng là một ngôn ngữ nên nó được thể hiện giữa hai hình thức: Lời nói và chữ viết. Muốn sử dụng được ngôn ngữ đó tức là phải nắm vững hình thức biểu đạt của từ bằng lời nói hay chữ viết. Song do có mối liên quan của từ vựng với các yếu tố khác trong ngôn ngữ ( ngữ pháp, ngữ âm, ngữ điệu..) hoặc trong tình huống giao tiếp cụ thể ta thấy từ vựng là các “ viên gạch” còn ngữ pháp và các yếu tố ngôn ngữ khác được coi như những “mạch vữa” để xây lên thành môt ngôi nhà “ ngôn ngữ”.
Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó học vẹt mà không biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế nào để khắc phục tình trạng này ? Làm thế nào để thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề đòi hỏi người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư phạm nhà trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức, cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu.
 Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài, đối phó trong khi các em học rất yếu môn này. Từ đó, một số em có tâm lý chán học bộ môn Tiếng Anh. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói Tiếng anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học.
 Học sinh tiểu học là những trẻ em, mức độ nhận thức của các em còn thấp, chất lượng học tập bộ môn không đồng bộ. Thêm nữa, học sinh thường chỉ quen cách học cũ, ít đọc thêm sách báo phù hợp lứa tuổi để mở rộng bổ sung, nâng cao kiến thức. Đồng thời đây là những năm đầu làm quen với một ngoại ngữ, trong khi vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt tiếng mẹ đẻ của mình. 
 Hơn nữa Tiếng Anh ở bậc tiểu học chỉ là môn học phụ tự chọn, thế nên bản thân học sinh và ngay cả phụ huynh cũng không quan tâm đến bộ môn này, họ chỉ đầu tư cho con mình học nâng cao môn Toán, Tiếng Việt. 
 Tuy Tiếng Anh ở bậc tiểu học mới được coi là môn học chính khóa, năm học này mới là năm học thứ hai. Song, nó có tính chất khởi đầu quan trọng trong các năm học tiếp theo ở cấp II. Vì thế nó giữ một vai trò không nhỏ trong quá trình học tập của các em. Nó trang bị cho các em vốn từ vựng, ngữ pháp và những mẫu câu tối thiểu, cơ bản, đơn giản nhất xoay quanh những chủ điểm rất gần gũi, được các em yêu thích và quen thuộc, là những chủ điểm giới thiệu bản thân, chủ điểm trường lớp bạn bè, chủ điểm gia đình, và chủ điểm khác (thế giới xung quanh các em). Chính vì thế việc gây hứng thú và củng cố kiến thức cho học sinh là một việc vô cùng quan trọng thường xuyên. Bởi điều này ảnh hưởng rất nhiều đến động cơ học tập của học sinh, một yếu tố tác động cơ bản đến quá trình học một ngôn ngữ: Không có động cơ trẻ sẽ không học - và việc củng cố kiến thức còn làm khắc sâu hơn những ngữ liệu đã học trong các tiết học một cách có hệ thống, làm nền tảng vững chắc giúp các em học tốt hơn, tự tin hơn trong quá trình học tập sau này. 
 Để chất lượng môn học của các em đạt kết quả tốt nhất thì không phải là một chuyện dễ dàng. Vậy làm thế nào để các em hình thành và phát triển kỹ năng học tập toàn diện nhất ? Làm thế nào để các em yêu mến, khắc sâu vốn kiến thức văn hóa nước ngoài ? Bằng hình thức nào giúp học sinh nắm bài vững mà không nhàm chán, phải thật sự lôi cuốn, tạo không khí vui tươi thoải mái trong giờ học, gây hứng thú cho học sinh khi tiếp thu văn hoá nước ngoài mà bản thân các em chưa biết được chút gì.
 Ngày nay trên những phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện rất nhiều trò chơi truyền hình thu hút đông đảo khán giả, nhất là khán giả trẻ tuổi như học sinh, sinh viên.
 Tất cả những trò chơi, chương trình ca nhạc truyền hình, nếu được hỏi: “Hãy kể tên các trò chơi, chương trình ca nhạc truyền hình mà em biết?” Các em sẽ trả lời vanh vách như “Rồng Vàng”, “Tam sao thất bản”, “Ki-ốt âm nhạc”, “Nào ta cùng hát” ... vì đây là lượng khán giả trung thành nhất.
 Chúng ta đều biết bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ. Trong tiếng Anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. 
 Thật vậy, nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và hệ quả của nó là không nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho dù các em có nắm vững các mẫu câu. 
 Do vậy, giúp học sinh nắm vững các từ đã học để vận dụng vào việc rèn luyện các kỹ năng là việc làm rất quan trọng khiến tôi trăn trở và quyết định thực hiện đề tài : “ Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa.” Xin ghi ra đây những kinh nghiệm nhỏ bé của mình, có thể nó không mới nhưng tôi đã thực hiện và có một số kết quả tương đối. Mong rằng những kinh nghiệm này góp phần bổ sung và làm phong phú hơn phương pháp dạy học của các bạn đồng nghiệp.
3.Thời gian địa điểm.
 Trong năm học 2013-2014 tôi được phân công giảng dạy môn tiếng Anh khối lớp 5. Giáo trình tiếng Anh mới của bộ.Do vậy tôi đã áp dụng đề tài này với học sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Quyết Thắng. Năm học 2013 - 2014.
4.Đóng góp mới về về mặt thực tiễn.
Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó học vẹt mà không biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế nào để khắc phục tình trạng này ? Làm thế nào để thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề đòi hỏi người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư phạm nhà trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức, cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Trong nhà trường phổ thông hiện nay, cũng giống như các bộ môn khác ,việc dạy và học Tiếng Anh đang diễn ra cùng với sự đổi mới phương pháp giáo dục, cải cách sách giáo khoa, giảm nội dung chương trình học nhằm làm phù hợp với nhận thức của học sinh, làm cho học sinh tiếp cận với các nội dung, kiến thức hiện đại. Vốn từ vựng tiếng Anh trong trương trình học cũng được sử dụng phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.
 Trước hết, xuất phát từ đối tượng giảng dạy là học sinh ở lứa tuổi từ 6-12 về hiểu biết về xã hội chưa có do vậy vốn từ vựng dạy cho các em ở cấp học này thường phải được kết hợp với các kỹ năng dạy học phù hợp để gây hứng thú cho học sinh. Bên cạnh đó việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường còn diễn ra trong môi trường giao tiếp giữa thầy và trò còn nhiều hạn chế. Số lượng học sinh ở mỗi lớp rất đông, nhiều lớp tới 35 học sinh.Trình độ nhận thức có nhiều cấp độ khác nhau phương tiện giảng dạy còn thiếu thốnĐiều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc rèn kĩ năng cho học sinh và sự phân bố thời gian cho từng phần nội dung bài sao cho phù hợp từng loại bài giảng( thực hành, kĩ năng) cũng là một tác động tới việc lựa chọn, nghiên cứu và áp dụng kĩ năng dạy từ vựng sao cho phù hợp.
 Qua thực tế dạy học những năm qua, tôi nhận thấy phương pháp cũ dạy học từ vựng thường theo kiểu cũ. Giáo viên đọc bài rồi liệt kê ra từng từ, cho học sinh đọc và giải thích nghĩa của từ, từ loại, cách sử dụng từ đóNó còn có những hạn chế cơ bản như sau: Học sinh học từ một cách thụ động, sử dụng từ trong từng ngữ cảnh giao tiếp bị hạn chế, không linh hoạt và còn lệ thuộc nhiều vào cấu trúc ngữ pháp. Do đó vấn đề được đặt ra là nghiên cứu áp dụng kĩ năng dạy từ vựng, cụ thể là các kĩ năng dạy từ vựng, khả năng giới thiệu và kiểm tra từ vựng sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. CHƯƠNG TRÌNH 1: TỔNG QUAN
1.1. Cơ sở lý luận.
Như chúng ta đã biết, năm học 2013 - 2014 là năm học tiếp theo toàn ngành giáo dục ta thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Ở trường trung học cơ sở giáo viên dạy học sinh các môn học khác nhau trên cơ sở trang bị cho học sinh hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, nhằm đào tạo đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có kỹ năng thực hành, năng động và sáng tạo 
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên những lớp cao hơn hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. 
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu:“Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
a. Thuận lợi :
 - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và tài liệu chuyên môn phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn : bộ tranh giáo trình Let’s go, máy cassette, máy chiếu Overhead ..
 - Chính quyền địa phương và các đoàn thể trong và ngoài nhà trường luôn hỗ trợ giáo viên trong quá trình công tác.
 - Bản thân giáo viên bộ môn luôn nhận được sự hỗ trợ từ các giáo viên cùng tổ chuyên môn và các đồng nghiệp.
 - Đa số các em học sinh trong lớp đều yêu thích học Tiếng Anh và chuẩn bị tốt sách vở, đồ dùng cho việc học tập.
 - Phần lớn phụ huynh học sinh luôn quan tâm và tạo điều kiện để con em mình học tập.
b. Khó khăn:
 - Đa số các em chưa có phương pháp học từ vựng thật sự hiệu quả. Về phía phụ huynh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà bởi môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. 
 - Một số học sinh nhất là các học sinh nam thường xao lãng và ít quan tâm đến việc học tập cũng như học từ vựng.
 - Một số học sinh ít có thời gian học bài ở nhà vì ngoài giờ học các em còn phải phụ giúp cha mẹ làm việc nhà, nhiều gia đình cũng rất vất vả về kinh tế nên muốn mua cho con môt quyển sách để học còn khó thì nói gì đến sách tham khảo để nâng cao vốn từ ngoài những từ vựng mà sách giáo khoa cung cấp.
 - Các em ít có điều kiện để giao tiếp bằng tiếng Anh và các em cũng ngại giao tiếp, trao đổi nhau bằng tiếng Anh ngoài giờ học.
CHƯƠNG 2: 
NỘI DUNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU
2.1. Thực trạng
* Khảo sát.
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình.
Phương pháp chủ đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép, nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh, ngữ cảnh có thể là một bài đọc, một đoạn hội thoại hay một bài khoá. Tuy nhiên, nói đến cùng thì việc dạy và học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào ? Dạy cấu trúc câu mới như thế nào để học sinh biết. cách sử dụng từ mới và cấu trúc mới trong giao tiếp bằng tiếng nước ngoài.Theo khảo sát cho thấy nếu chúng ta áp dụng phương pháp cũ để giảng dạy từ mới học sinh tiếp thu bài chậm khả năng nhớ từ khó hơn và chóng quên.Học sinh học một cách thụ động ép buộc không có hứng thú.Điều này dẫn tới chất lượng tiết học không đảm bảo.
*Đánh giá.
Ngay từ đầu, giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở, dạy từ, kiểm tra và củng cố từ vựng.
-Có nên dạy tất cả những từ mới không ? Dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì vừa.
- Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới.
- Dùng tranh ảnh, dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới .
- Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc để hoàn thiện chức năng giao tiếp, thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và vốn từ đã có.
- Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ của học sinh thông qua các mẫu câu và qua những bài tập thực hành.Qua việc nghiên cứu tình trạng dạy và học từ vựng tôi đưa ra một số giải pháp sau.
2.2.Các giải pháp.
a.Những vấn đề cần quan tâm trong quá trình dạy từ.
-Trước mỗi bài học giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh liên quan đến từng bài học lên tường hai bên phòng học để học sinh dễ nhìn và dễ nhận biết chúng đang học bài nào? Mục đích cũng làm tăng thêm sự chú ý cũng như không khí trong lớp học thỏa mái dễ chịu
- Sắp xếp những học sinh nhút nhát ngồi phía bàn trên gần giáo viên để tiện lắng nghe và tạo cơ hội động viên khích lệ trẻ.
- Giáo viên phải nghiên cứu bài giảng trước khi lên lớp,viết tóm tắt định hướng tiết dạy,nhằm tìm ra mối liên quan giữa bài trước với bài sau, phần nào nên dạy trước phần nào sẽ dạy sau trong tiết dạy để học sinh dễ hiểu bài.
- Nếu dạy bằng máy giáo viên nên bấm máy chậm vừa đủ để hs nghe- hiểu -đọc chính xác theo máy. Giáo viên không cần đọc mẫu, học sinh chỉ đọc khi máy đã đọc xong. Giáo viên luôn chú ý luyện cho học sinh cách phát âm,đọc đúng ngữ điệu theo máy và không được dạy mở rộng.GV không nên dịch tiếng việt khi dạy từ.
- Trong tiết dạy giáo viên phải bám sát khung phân phân bổ chương trình.Thực hiện đúng giáo học pháp qui định trong tài liệu hướng dẫn.
 - Sử dụng hiệu quả kỹ thuật giảng dạy và ghi điểm thi đua trong tiết học để học sinh luôn phải chú ý hoà vào không khí học tập của lớp.Thực hiện mỗi học sinh phải đọc cá nhân ít nhất 1 lần/ tiết và đọc nhiều lần theo nhóm trong một tiết dạy, giúp học sinh nhớ ngay bài trên lớp. Đối tượng học là HS tiểu học nên giáo viên cần phải dạy tỉ mỉ hơn.
- Khi tổ chức chơi trò chơi trên lớp.GV phải chú ý hướng dẫn thật cụ thể và rõ ràng luật chơi cho học sinh hiểu.Khen thưởng động viên kịp thời và công bằng với mỗi học sinh.
b. Nhiệm vụ cụ thể của thày giáo trên lớp.
 Dựa vào các hoạt động cụ thể trên lớp và quan điểm mới về vai trò người thầy giáo, có thể tóm tắt những nhiệm vụ cụ thể của thầy giáo trên lớp như sau:
- Soạn thảo chuẩn bị các hoạt động dạy học.
- Chuẩn bị về tâm lý và kiến thức cho học sinh vào bài mới .
- Giới thiệu bài mới.
- Hỏi các câu hỏi phù hợp cho các mục đích dạy học khác nhau.
- Điều khiển các bài tập luyện.
- Kiểm tra mức độ nắm bắt, hiểu bài của học sinh.
- Tạo cơ hội thực hành sử dụng ngữ liệu mới.
- Điều hành các hoạt động học tập của học sinh.
- Củng cố dạy lại bài khi cần thiết.
Hiểu biết thêm về vai trò của người thày giáo giúp giáo viên có cơ sở để xem xét, phối hợp với kinh nghiệm bản thân để chủ động xác định cho mình một vai trò phù hợp với từng giai đoạn học tập sao cho có thể phát huy được tối đa năng lực của học sinh và đem lại hiệu quả dạy và học cao nhất. 
c. Mục tiêu và đặc điểm cần đạt trong phần giới thiệu từ mới.
1. Lựa chọn từ để dạy:
Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ phong phú.
Ở môi trường phổ thông hiện nay, khi nói đến ngữ liệu mới là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng và ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề:
 - Từ chủ động (active vocabulary)
 - Từ bị động (passive vocabulary)
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và hướng dẫn học sinh luyện tập nhiều hơn.
Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
 - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form.
+ Meaning.
+ Use.
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
 - Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.
 - Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: 
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
	- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.
 - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.
 - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán nghĩa của từ.
2 Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới:
 Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới, giúp các em học sinh tiếp thu từ một cách chủ động như: 
* Visual (nhìn) :
Cho học sinh nhìn tranh ảnh hoặc vẽ phác hoạ cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng.
* Mine (điệu bộ): 
 Thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
 Ex :
Unit 6: How ‘s the weather ?
-sunny, windy, rainy, snowy, hot, cold, hungy, thirsty 
* Realia (vật thật)
 Dùng những dụng cụ trực quan mà thực tế có được.
 Ex: 
 Để dạy các từ về rau, củ, quả , bánh kem, thịt ,cá,giáo viên nên sưu tầm vật thật học tranh ảnh để minh họa cho bài giảng của mình. 
* Situation / Explanation: 
 Dùng tình huống và giải thích để học sinh nắm bắt từ mới một cách hiệu quả.
 Giáo viên có thể đưa ra một vài tình huống để học sinh tự đoán nghĩa.
* Example : 
 Đưa ra các ví dụ cụ thể có liên quan đến từ sắp học tạo sự tò mò và hấp dẫn học sinh.
* Synonym \ antonym:( từ đồng nghĩa \ trái nghĩa):
 Giáo viên dùng những từ đã học rồi có nghĩa tương đương để giúp học sinh nhận biết nghĩa cuả từ sắp được học.
 “giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự đoán nghĩa thông qua từ đã học trước đó.
 	Ex: tall / short, thin / fat, young/ old, pretty/ urly.
 T. asks “What’s another word for nice?”
 Ss answer “ pretty”
* Translation (dịch):
 - Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để cung cấp nghĩa

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_tu_vung_cho_hoc_s.doc