Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào Lớp 1

Cơ sở lý luận.

Giáo dục mầm non là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài, ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển giáo dục phổ thông, đây là bậc học đầu tiên là nền tảng để các em học lên các lớp trên, chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1. Góp phần Phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và Phổ cập trung học cơ sở đến năm 2015. Đối với trẻ mầm non trong quá trình phát triển, nếu được uốn nắn, giáo dục tốt các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống. Với đặc điểm của trẻ là tính tò mò, ham hiểu biết, giàu óc sáng tạo và trí tưởng tượng, ưa hoạt động để khẳng định bản thân mình. Từ đặc điểm đó mà giáo viên nên xem trẻ là chủ thể tích cực, giáo viên là người tạo cơ hội gợi mở các hoạt động để trẻ khám phá tìm tòi. Tuy vậy chúng ta không nên làm giúp trẻ, mà xem trẻ là trung tâm của mọi hoạt động, là chủ thể của sự phát triển bởi lẽ bản thân hoạt động tích cực thì con người càng phát triển nhanh và nhờ tích cực con người phát huy tính sáng tạo từ đó mà nhận thức của trẻ dựa trên đặc điểm nhận thức và sở thích của trẻ.

Chúng ta phải thừa nhận một điều là trẻ em người đồng bào DTTS ngày nay đã thông minh, hoạt bát, lém lỉnh hơn. Nhưng khi cháu vào lớp học thì các cháu vẫn nhút nhát, không dám nói lên những điều trẻ thích, không dám mạnh dạn sinh hoạt trong tập thể, giao tiếp với người lớn theo suy nghĩ của mình. Chỉ có một số ít cháu dám nói lên những suy nghĩ, trò chuyện cùng cô và khách đến lớp nhưng cũng không thể bằng các cháu người Kinh được. Đây là trăn trở của một người làm công tác lãnh đạo của một đơn vị trường có đa số học sinh là con em các đồng bào dân tộc vì vậy tôi đã tìm ra các các câu hỏi và phải có câu trả lời. Chính vì thế nên việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào DTTS vào lớp 1 rất quan trọng không phải một sớm một chiều, hoặc cho trẻ học trước chương trình lớp 1 là đủ mà ta phải có sự chuẩn bị từ trước, từ việc nhận thức đúng ở những năm đầu đời ở trường MN.

 

doc 28 trang hoathepmc36 28/02/2022 11172
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài.
Trẻ em, thế hệ mầm non tương lai của đất nước, là những chủ nhân sẽ kế thừa và phát huy những gì tốt đẹp nhất của loài người. Vì thế, việc quan tâm, chăm sóc cũng như tạo điều kiện để trẻ phát triển một cách toàn diện là một vấn đề mà toàn xã hội cần phải quan tâm. Việc đến trường phổ thông được coi như là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời, là một bước chuyển biến mang tính nhảy vọt, vì trong trẻ có sự biến đổi giữa trường, lớp mầm non lên Tiểu học. Đó là việc trẻ được chuyển qua một lối sống mới với những hoạt động mới, một vị trí xã hội mới với những mối quan hệ mới của một người học sinh thực thụ. Chúng ta, những người thầy dạy trẻ mầm non đã chuẩn bị được gì cho trẻ bước vào lớp 1 trường phổ thông mà trẻ không bị hẫng hụt về tâm lý, cũng như có đầy đủ những tố chất sẵn sàng cho việc học phổ thông. Chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông là chuẩn bị toàn diện về mọi mặt, không thiên về khía cạnh nào và tuỳ theo lứa tuổi và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mà ta áp dụng các bài tập, giờ học, giờ chơi, sinh hoạt cho phù hợp. Luật giáo dục, ở điều 19 có nêu: “Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 phổ thông”. 
Chuẩn bị cho trẻ vào lớp một trường Tiểu học được tiến hành thường xuyên và liên tục ở mọi lúc, mọi nơi và là nhiệm vụ của mọi lực lượng giáo dục: gia đình, nhà trường, toàn xã hội, đặc biệt là các trường mầm non. Như vậy, việc cho trẻ làm quen trước với các hoạt động ở trường mầm non là rất cần thiết. Chuẩn bị cho con trẻ vào học lớp 1 không chỉ là chuẩn bị đầy đủ quần áo, sách vở, cặp bút dụng cụ học tập, như thế vẫn chưa đủ. Mà phải chuẩn bị tâm lý cho trẻ, để trẻ bước vào lớp 1 với một tâm thế vững vàng, đầy háo hức đón chờ một sự thay đổi nhiều điều mới lạ. Bởi lẽ trẻ có háo hức muốn khám phá điều mới lạ thì trẻ mới ham thích đến trường, mới say sưa tìm tòi để khám phá thế giới xung quanh. Đây là động cơ tốt, ta muốn trẻ học tốt thì phải tạo động lực thúc đẩy. Quá trình dạy - học, là quá trình  tương tác diễn ra giữa người dạy và người học, cần tạo động lực thúc đẩy tác động trực tiếp đến người học và người dạy thì kết quả đạt được mới cao. Trường mầm non là môi trường quan trọng để giúp trẻ có một tâm thế sẵn sàng bước vào lớp 1. Hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở cấp học tiếp theo và cho việc học suốt đời. Chính vì thế, nhiệm vụ của các cô giáo mầm non là phải tạo cho trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi), đặc biệt là trẻ vùng đồng bào DTTS một tâm thế vững vàng, sẵn sàng bước vào lớp 1 để trẻ tiếp cận môi trường mới một cách tốt nhất, nhằm giúp trẻ tiếp thu kiến thức ở lớp 1 trường Tiểu học đạt hiệu quả nhất. Chính vì những lí do trên, với cương vị là một cán bộ quản lý của trường mầm non tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5- 6 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào lớp 1”.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
* Mục tiêu của đề tài.
- Mục tiêu của Giáo dục mầm non là nuôi dạy chăm sóc và giáo dục trẻ phát triển toàn diện theo 5 lĩnh vực. Giúp trẻ có một tâm thế vững vàng, sẵn sàng bước vào lớp 1 để trẻ tiếp cận môi trường mới một cách tốt nhất, nhằm giúp trẻ tiếp thu kiến thức tốt ở bậc học Tiểu học đạt hiệu quả nhất.
- Tìm hiểu thực trạng tâm thế, trí tuệ, kỹ năng học tập.. của trẻ 5- 6 tuổi tại đơn vị.
- Tìm ra nguyên nhân và đề ra các biện pháp tác động làm thay đổi thực trạng trên.
* Nhiệm vụ của đề tài.
- Nâng cao nhận thức cho giáo viên về việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ MN vào lớp 1 trường Tiểu học.
- Nghiên cứu thực trạng, đưa ra được các biện pháp chỉ đạo phù hợp để cải thiện thực trạng.
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Trẻ 5- 6 tuổi trường Mẫu giáo Bình Minh - Buôn Tuôr A - xã Dray sáp- Huyện Krông Ana
1.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
- Trường Mẫu giáo Bình Minh.
1.5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp trò chuyện
- Phương pháp thực nghiệm. 
II. PHẦN NỘI DUNG.
II.1 Cơ sở lý luận.
Giáo dục mầm non là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài, ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển giáo dục phổ thông, đây là bậc học đầu tiên là nền tảng để các em học lên các lớp trên, chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1. Góp phần Phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và Phổ cập trung học cơ sở đến năm 2015. Đối với trẻ mầm non trong quá trình phát triển, nếu được uốn nắn, giáo dục tốt các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống. Với đặc điểm của trẻ là tính tò mò, ham hiểu biết, giàu óc sáng tạo và trí tưởng tượng, ưa hoạt động để khẳng định bản thân mình. Từ đặc điểm đó mà giáo viên nên xem trẻ là chủ thể tích cực, giáo viên là người tạo cơ hội gợi mở các hoạt động để trẻ khám phá tìm tòi. Tuy vậy chúng ta không nên làm giúp trẻ, mà xem trẻ là trung tâm của mọi hoạt động, là chủ thể của sự phát triển bởi lẽ bản thân hoạt động tích cực thì con người càng phát triển nhanh và nhờ tích cực con người phát huy tính sáng tạo từ đó mà nhận thức của trẻ dựa trên đặc điểm nhận thức và sở thích của trẻ.
Chúng ta phải thừa nhận một điều là trẻ em người đồng bào DTTS ngày nay đã thông minh, hoạt bát, lém lỉnh hơn. Nhưng khi cháu vào lớp học thì các cháu vẫn nhút nhát, không dám nói lên những điều trẻ thích, không dám mạnh dạn sinh hoạt trong tập thể, giao tiếp với người lớn theo suy nghĩ của mình. Chỉ có một số ít cháu dám nói lên những suy nghĩ, trò chuyện cùng cô và khách đến lớp nhưng cũng không thể bằng các cháu người Kinh được. Đây là trăn trở của một người làm công tác lãnh đạo của một đơn vị trường có đa số học sinh là con em các đồng bào dân tộc vì vậy tôi đã tìm ra các các câu hỏi và phải có câu trả lời. Chính vì thế nên việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào DTTS vào lớp 1 rất quan trọng không phải một sớm một chiều, hoặc cho trẻ học trước chương trình lớp 1 là đủ mà ta phải có sự chuẩn bị từ trước, từ việc nhận thức đúng ở những năm đầu đời ở trường MN.
II.2. Thực trạng.
Thuận lợi – khó khăn.
* Thuận lợi.
Ban giám hiệu nhà trường dành nhiều thời gian đầu tư cho công tác chuyên môn, công tác phong trào. Nhiệt tình, có kinh nghiệm trong công tác tổ chức chỉ đạo và xây dựng thực hiện nhiệm vụ năm học. Quy định về nề nếp hoạt động, đẩy mạnh các mối quan hệ đoàn kết, phát huy tinh thần dân chủ trong tập thể Hội đồng sư phạm. Cơ sở vật chất trường lớp khang trang, sạch đẹp, đáp ứng yêu cầu giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay.
 	Trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, hăng say với công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Tỷ lệ trình độ cán bộ, giáo viên trên chuẩn cao so với mặt bằng chung. Luôn bám sát và thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mà ngành đã triển khai một cách chủ động, sáng tạo dựa trên thực tế trường lớp, địa phương. Tổ chức thực hiện các chuyên đề mà các cấp triển khai có hiệu quả và đạt chất lượng cao.
Ban đại diện cha mẹ học sinh quan tâm, chăm lo đến việc học tập của các cháu, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường.
Trẻ được học theo đúng độ tuổi và thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới của Bộ GD&ĐT.
* Khó khăn.
Đội ngũ giáo viên mới ra trường, trình độ chuyên môn không đồng đều, kinh nghiệm trong giảng dạy còn ít. Đa số giáo viên đều đang đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng đến chất lượng công tác.
Đồ dùng dạy học, đồ chơi còn chưa đa dạng, phong phú, chưa đồng bộ, đồ chơi ngoài trời còn thiếu so với quy định.
93.3 % học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số nên gặp nhiều khó khăn trong công tác dạy và học. 
	Tâm lí trẻ rất sợ môi trường mới, thầy, cô lạ, trẻ dể nảy sinh cảm giác sợ cái mới và sợ bị trơ trọi một mình. Trẻ đến trường rất sợ bị bỏ rơi, sợ chỗ đông người mà lại có rất nhiều người lạ, với bao nhiêu quy định, nào là đi học đúng giờ, ngồi ngay ngắn nghe giảng, làm bài tập ở lớp, bài về nhà Trẻ không còn được tự do vui chơi như trước. Thay đổi môi trường, tâm lí cũng thay đổi khiến trẻ dễ bị sốc hay có phản ứng tự vệ hoặc thu mình lại một góc ngồi quan sát mọi người xung quanh. Điều này làm trẻ sợ đến trường vào ngày hôm sau và những ngày tiếp theo.
Đời sống của nhân dân rất khó khăn, ba mẹ các cháu đều là những người dân làm nông, đi làm thuê ở xa nên họ ít có thời gian quan tâm đến con. 
	Một số phụ huynh phó mặc con mình cho trường mầm non dẫn đến việc không tạo ra được sự thống nhất trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, hiệu quả chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 không cao và khi vào lớp 1 trẻ rất bỡ ngỡ.
Một số phụ huynh không quan tâm tới con mình và việc nhận thức vấn đề chuẩn bị cho con vào lớp 1 còn lệch lạc, bắt trẻ phải đi học trước chương trình lớp 1, phải ngồi tập trung chú ý hàng buổi để tập viết, để làm toán
b. Thành công - hạn chế.
* Thành công.
Khi vận dụng đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5- 6 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào lớp 1 sẽ đạt được những thành công sau.
Trẻ học đúng chương trình sẽ khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, thông minh giàu cảm xúc, phát triển những tố chất quan trọng để sau này giúp trẻ phát triển hài hòa cân đối và hoàn thiện nhân cách. Sẽ là nền tảng vững chắc, là cơ sở để trẻ học tốt chương trình lớp 1 và những lớp sau này của bậc phổ thông.
Các em sẽ trở nên tự tin, linh hoạt, nhận biết giá trị bản thân, tự bảo vệ mình và tôn trọng người khác; hòa nhập tích cực vào môi trường sống tại gia đình cũng như biết thêm những kỹ năng cơ bản để hội nhập vào lớp 1.
Giúp cho phụ huynh nhận biết năng lực của trẻ và phát triển các năng lực đó thông qua những hoạt động tại gia đình.
* Hạn chế.
Đa số giáo viên trẻ, mới ra trường nên kinh nghiệm chưa cao.
93.3 % học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số tâm lí nhút nhát, hay sợ hãi, ngại giao tiếp với người lạ nên gặp nhiều khó khăn trong công tác dạy và học. 
Trẻ chưa có tâm lí sẵn sàng cho một môi trường học tập mới.
	Một số phụ huynh phó mặc con mình cho trường mầm non dẫn đến việc không tạo ra được sự thống nhất trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, hiệu quả chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 không cao và khi vào lớp 1 trẻ rất bỡ ngỡ.
Một số phụ huynh chưa quan tâm tới việc chuẩn bị tâm thế cho com em mình vào lớp 1, bắt trẻ phải đi học trước chương trình lớp 1.
c. Mặt mạnh – mặt yếu.
* Mặt mạnh.
Được sự quan tâm tạo điều kiện của lãnh đạo các cấp, của ban giám hiệu nhà trường, đầu tư về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Đồ dùng đồ chơi sạch sẽ bảo đảm an toàn cho trẻ.
Ban giám hiệu nhà trường dành nhiều thời gian đầu tư cho công tác chuyên môn, công tác phong trào. Nhiệt tình, có kinh nghiệm trong công tác tổ chức chỉ đạo
và xây dựng thực hiện nhiệm vụ năm học. 
Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, tận tụy với nghề, có trình độ chuẩn, trên chuẩn về chuyên môn, thường xuyên được ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện cho đi tham gia các lớp tập huấn về chuyên đề mầm non do Phòng, Sở GD&ĐT tổ chức. Có kĩ năng sư phạm, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tương đối tốt.
Trẻ được học theo đúng độ tuổi và thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới của Bộ GD&ĐT.
* Mặt yếu.
Đội ngũ giáo viên mới ra trường, trình độ chuyên môn không đồng đều, kinh nghiệm trong giảng dạy còn ít. Đa số giáo viên đều đang đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng đến chất lượng công tác.
Đồ dùng dạy học, đồ chơi còn chưa đa dạng, phong phú, chưa đồng bộ, đồ chơi ngoài trời còn thiếu so với quy định.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
* Nguyên nhân dẫn đến thành công của đề tài này là. 
Hiệu trưởng có trách nhiệm cao trong toàn bộ các công việc, các mặt hoạt động của nhà trường. Đã chỉ đạo chuyên môn tiến hành khảo sát năng lực chuyên môn của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường vào đầu năm, theo dõi các hoạt động để tìm ra nguyên nhân, có biện pháp giúp đỡ cho phù hợp.
Luôn bám sát và thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mà ngành đã triển khai một cách chủ động, sáng tạo dựa trên thực tế trường lớp, địa phương.
Cán bộ, giáo viên, nhân viên nhiệt tình, chịu khó học hỏi kinh nghiệm để không ngừng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ.
Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp đặc biệt là những đồng nghiệp công tác lâu năm trong trường.
* Hạn chế, yếu kém.
Trẻ hạn chế về tiếng Việt, nhút nhát, chưa tự tin trong các hoạt động giao tiếp.
Trẻ chưa có tâm lí sẵn sàng cho một môi trường học tập mới
Một số phụ huynh chưa quan tâm tới việc chuẩn bị tâm thế cho con em mình vào lớp 1, bắt trẻ phải đi học trước chương trình lớp 1 dẫn đến hiệu quả chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 không cao và khi vào lớp 1 trẻ rất bỡ ngỡ.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
* Kết quả khảo sát đầu năm học 2014- 2015 cho ta thấy.
- Đối với trẻ: Tổng số trẻ được khảo sát: 40
+ Có 16/40 trẻ nhận thức nhanh, đạt tỷ lệ 40%; 
+ Có 16/40 trẻ nhận thức trung bình , đạt tỷ lệ 40%; 
+ Có 8/40 trẻ nhận thức chậm, chiếm tỷ lệ 20%.
+ Có 22/40 trẻ nhanh nhẹn linh hoạt, đạt tỷ lệ 55%; 
+ Có 18/40 trẻ nhút nhát. chiếm tỷ lệ 45%.
- Đối với cha mẹ trẻ: Tổng số phụ huynh được khảo sát: 40
+ Câu hỏi: “Anh (chị) đã làm gì để chuẩn bị cho con vào lớp 1” và nhận được câu trả lời như sau.
+ 35 % phụ huynh trả trả lời không cần chuẩn bị gì hết.
+ 50 % phụ huynh trả trả lời là phải chuẩn bị cho trẻ biết đọc, biết viết, biết làm toán.
+ 15 % phụ huynh trả trả lời là phải chuẩn bị cho trẻ đầy đủ về thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ và lao động cũng như tâm lý của trẻ trước khi vào lớp một.
* Mặt được.
- Nhìn chung các bậc phụ huynh đã biết lo lắng trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. 
 - Trẻ được học theo đúng độ tuổi và thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới của Bộ GD&ĐT.
* Mặt còn hạn chế.
- Một số phụ huynh chưa quan tâm tới việc chuẩn bị tâm thế cho com em mình vào lớp 1, lầm tưởng rằng để cho trẻ học tập tốt ở trường phổ thông cần dạy trước cho trẻ như: Tập viết, tập đọc, tập làm toán nên bắt trẻ phải đi học trước chương trình lớp 1.
* Nguyên nhân.
93.3 % học sinh là người đồng bào DTTS tâm lí nhút nhát, hay sợ hãi, ngại giao tiếp với người lạ nên gặp nhiều khó khăn trong công tác dạy và học. 
Một số gia đình do không nắm được một cách vững vàng đặc điểm tâm, sinh lý trẻ em, do quá nôn nóng và lo lắng nên đã vội vã yêu cầu các cháu học đọc, học viếtngay từ lứa tuổi mầm non.
Một vài lớp mầm non tư thục trên địa bàn và cùng lân cận dạy tập đọc, tập viết trước chương trình lớp một cho các cháu 5 tuổi. Dạy không theo phương pháp cơ bản của giáo viên Tiểu học dẫn đến sự khập khễnh, không thống nhất về cách phát âm, quy trình chữ viết, cấu tạo nét chữ giưa giáo viên mầm non và tiểu học.
II.3. Giải pháp, biện pháp.
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như: phát triển về thể chất, tình cảm, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở cấp học tiếp theo và cho việc học suốt đời.
Giúp cho phụ huynh nhận thức được ý nghĩa của việc chuẩn bị tâm thế sẵn sàng cho trẻ vào lớp một là vấn đề cấp bách và cần thiết với trẻ 5- 6 tuổi.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Đối với trẻ 5-6 tuổi, việc đến trường phổ thông được coi như một bước ngoặt quan trọng của cuộc đời. Đó là trẻ được chuyển qua một lối sống mới với những hoạt động mới, những quan hệ mới của một người học sinh thực thụ.
Đến trường phổ thông, trẻ được hòa nhập vào những mối quan hệ mới với người xung quanh như: thầy, cô, bạn bè và những người lớn xung quanh... Khác với trường mầm non, trẻ sống trong cuộc sống, sinh hoạt như gia đình. Hơn nữa ở mỗi giai đoạn phát triển đều có những yêu cầu về tâm, sinh lý, về xã hội đòi hỏi mỗi học sinh phải thích ứng với hoạt động học tập. Nếu chúng ta không chuẩn bị cho trẻ thích ứng được thì không những việc học tập không đạt kết quả cao mà cuộc sống của trẻ còn trở nên nặng nề. Vì vậy, phải chuẩn bị một cách toàn diện cho trẻ đến trường.
Trong điều kiện hiện tại của đơn vị tôi nhận thấy cần phải suy nghĩ, làm thế nào đó để giúp giáo viên, phụ huynh đưa chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giảng dạy trong nhà trường được nâng cao, chuẩn bị tâm thế tốt cho trẻ sẵn sàng vào lớp 1. Vì vậy mà tôi đã tìm ra được một số giải pháp sau:
 b1: Làm tốt công tác tuyên truyền cho cán bộ địa phương, cán bộ, giáo viên trong nhà trường và cha mẹ học sinh trên địa bàn để mọi người thấy được ý nghĩa của việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào DTTS vào lớp1.
          Vào đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường tổ chức triển khai đến tận cán bộ giáo viên và các tổ chức đoàn thể trong đơn vị học tập các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ của năm học và chỉ đạo sâu về công tác chuẩn bị tâm thế tốt cho trẻ 5-6 tuổi vào lớp 1. 
Xây dựng kế hoạch tuyên truyền tới cha mẹ học sinh và các cán bộ địa phương, trưởng thôn buôn xuyên suốt có sự đầu tư ở một số thời điểm, tận dụng triệt để các cuộc hội họp, sinh hoạt của chi bộ, các đoàn thể, các buổi tổ chức lễ hội... 
Chú trọng phát huy đội ngũ tuyên truyền viên của nhà trường là những cán bộ, giáo viên, nhân viên phối hợp với trưởng thôn buôn, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Ban đại diện cha mẹ học sinh hỗ trợ tuyên truyền những nội dung nuôi dạy trẻ khoa học, sát với thực tế nâng cao kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ, việc chuẩn bị tâm thế tốt cho trẻ 5 - 6 tuổi chuẩn bị vào lớp 1. Giải thích cho họ hiểu nếu trẻ được chuẩn bị tốt cả về mặt thể chất, tinh thần thì trẻ sẽ nhanh nhẹn, hoạt bát, khi vào lớp 1 sẽ tự tin, không bỡ ngỡ và hòa đồng vào môi trường mới học hành đạt kết quả tốt hơn. 
          Về phía nhà trường thường xuyên phối hợp với phụ huynh chủ động tổ chức tuyên truyền với nhiều hình thức như: Tổ chức hội thi “Bé khỏe bé ngoan, thi an toàn giao thông, biểu diễn thời trang, tiếng hát mừng xuân...”. Tổ chức các buổi truyền thông qua các hoạt động như: Khai giảng năm học mới, tết trung thu, sơ kết, tổng kết... góp phần tạo sự chuyển biến trách nhiệm của cha mẹ học sinh. 
b2. Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm thế học tập.
Tâm thế sẵn sàng đi học là một yếu tố tâm lý quan trọng của trẻ 5-6 tuổi khi các cháu được đến trường Tiểu học. Nó kích thích tính tích cực học tập và tham gia vào các hoạt động ở trường Tiểu học. Để tạo ra tâm thế sẵn sàng đi học tôi đã chú ý chỉ đạo giáo viên một số vấn đề sau. 
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm các lớp cần kích thích lòng ham hiểu biết, tìm tòi, khám phá những điều mới lạ trong môi trường xung quanh của trẻ bằng cách luôn tạo ra tình huống có vấn đề để kích thích trẻ suy nghĩ và giải quyết vấn đề. 
Ví dụ: Tham quan trường Tiểu học (chủ đề trường TH), cô giới thiệu về lớp học, phòng thư viện,... những gì khác với trường MN. Làm quen với học sinh, giáo viên lớp một và hiểu biết các hoạt động: học tập, vui chơi, lao động của các anh chị ở trường Tiểu học.
Cho trẻ làm quen với mộ số đồ dùng của học sinh lớp 1 như: cặp sách, bút chì, bút màu, sách tập đọc, bảng, phấn.. và nói khi nào vào lớp 1 các con sẽ có được đầy đủ các đồ dùng này được các thầy cô giáo dạy thêm nhiều điều mới lạ, để trẻ thêm hứng thú với những đồ dùng đó và khao khát được trở thành học sinh lớp 1.
Gia đình và nhà trường cần kết hợp chặt chẽ để hình thành cho trẻ tâm thế sẵn sàng đi học. Lòng mong muốn được đi học chỉ xuất hiện khi trẻ nhận ra rằng trường học là nơi giải đáp những vấn đề mà trẻ đang băn khoăn, thắc mắc, mong muốn được giải thích. Giúp trẻ thấy được đi học là niềm hạnh phúc của mọi trẻ em. Trẻ phải nhận thức được muốn trở thành người tài giỏi như cô giáo, bác sĩ đều phải đi học. 
Muốn vậy cha mẹ thường xuyên trò chuyện với trẻ để gây sự tò mò về những ngày đầu đi học của bố mẹ ngày xưa như: cặp sách, bảng đen, bút 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_chi_dao_trong_cong_ta.doc