Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo, bồi dưỡng giáo viên Lớp 4 dạy tốt môn Toán bằng bản đồ tư duy
Đổi mới phương pháp dạy và học là điều mà ngành giáo dục nói chung, giáo dục Long Biên nói riêng luôn chỉ đạo sát sao để nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, việc thực hiện riêng lẻ nhất định sẽ không mang lại hiệu quả cao mà cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cấp lãnh đạo, của toàn thể giáo viên và tất cả các môn học, cấp học. Theo đánh giá của nhiều giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, cùng với việc áp dụng các phương pháp dạy học: VNEN, bàn tay năm bột, BĐTD đã mang lại hiệu quả thiết thực như: Giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học. Mặt khác, dạy học bằng BĐTD giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh, nhất là những học sinh khá, giỏi. Học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém. Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm chỉ đạo dạy học cho thấy: sử dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức và hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc).
BĐTD là một nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang đẩy mạnh triển khai. BĐTD một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm BĐTD. Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng bộ môn, thực hiện được chủ trương của ngành là không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục
Từ những giải pháp và biện pháp tôi đã thực hiện ở trên áp dụng vào thực tế dạy học Toán 4 cho GV nơi tôi công tác bước đầu đã góp phần nâng cao chất lượng dạy và học đạt hiệu quả cao hơn so với các năm học trước. Việc sử dụng bản đồ tư duy giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh học tập tích cực, tăng tính chủ động sáng tạo, phát triển tư duy góp phần nâng cao chất lượng môn Toán.
A. PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dânĐổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.” Chính vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục được xem là nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục. Toàn ngành đã tích cực thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục, tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên, duy trì sĩ số học sinh, đẩy mạnh công tác phụ đạo học sinh có học lực yếu kém, tăng cường kỷ cương, nề nếp dạy và học trong nhà trường. Tổ chức giảng dạy 2 buổi/ngày cho học sinh ở các trường Tiểu học là các biện pháp mà các nhà trường đã và đang thực hiện nhằm nâng cao chất lượng. Chất lượng giáo dục là kết quả đánh giá hữu hiệu nhất phương pháp dạy và học của thầy và trò vì hai nội dung giống nhau mà áp dụng các phương pháp dạy và học khác nhau thì sẽ đưa đến các kết quả khác nhau. Để chất lượng dạy và học đi vào chiều sâu thì cần tiến hành công cuộc đổi mới phương pháp học tập trong trường học : đổi mới cả cách "dạy" lẫn cách "học". Kinh nghiệm cho thấy phương pháp "người học chủ động", "người học là trung tâm" đã là nguồn sáng tạo và là động lực tiến bộ của nhiều nước trên thế giới ngày nay. Trong kỷ nguyên công nghệ thông tin đang đóng vai trò chiếm lĩnh hiện nay, nguồn tài liệu học tập nghiên cứu như: sách, tạp chí, báo, các kỹ yếu,rất phong phú. Vì vậy, trong công tác giáo dục, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho học sinh, giáo viên cần hướng học sinh đến một phương pháp học tập tích cực và tự chủ để lĩnh hội tri thức, và giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu để luôn cập nhật kịp thời tri thức của thế giới. Với “biển thông tin” như thế, để tiếp cận tốt cần có phương pháp giúp hệ thống lại những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạoMột trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Bản đồ tư duy (BĐTD) nhằm khắc phục tình trạng đọc - chép đặc biệt với học sinh lớp 4, 5. Bản đồ tư duy là công cụ hữu ích trong giảng dạy, học tập giúp giáo viên và học sinh trình bày các ý tưởng, tóm tắt, hệ thống hóa kiến thức của một bài học, một chủ đề, một chương trình hay cuốn sách một cách rõ ràng, mạch lạc, logic và đặc biệt dễ phát triển ý tưởng. Việc áp dụng BĐTD trong dạy học không đòi hỏi nhiều thời gian, không phải đầu tưu nhiều về kinh phí, vừa có thể dùng các phương tiện đơn giản như phấn màu, bút màu, giấy nháp, bìa, mặt sau của tờ lịch vừa có thể ứng dụng công nghệ thông tin (dùng phần mềm Mindmap) để thiết kế. Dạy học với BĐTD mang lại hiệu quả cao, đồng thời dễ dạy, dễ học thích hợp điều kiện của mọi vùng miền đất nước, phù hợp với khả năng của giáo viên và trình độ khác nhau của các em học sinh. Chính vì vậy tôi chọn và áp dụng thành công đề tài “ Một số kinh nghiệm trong việc chỉ đạo, bồi dưỡng giáo viên khối 4 dạy học bằng bản đồ tư duy trong môn Toán”. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi đưa ra một số giải pháp tích cực thông qua việc sử dụng BĐTD nhằm giúp quá trình giảng dạy và học tập đạt hiệu quả cao. Nâng cao chất lượng dạy và học cũng là một trong những tiêu chí xây dựng “Trường học thân thiện - học sinh tích cực” II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: - Giúp GV có cái nhìn tổng quát cho toàn phân môn Toán - Giúp GV dễ dàng hoàn thành kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của Bộ GD&ĐT ban hành. - HS dễ dàng tiếp thu kiến thức thông qua BĐTD, vận dụng vào bài học, trong cuộc sống hàng ngày, phát huy tính tích cực trong học tập. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: - Hoạt động dạy, học môn Toán lớp 4 trường Tiểu học .. IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT: - Học sinh lớp 4A, 4C trường Tiểu học - Thời gian áp dụng: năm học 2013-2014; 2014-2015 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Đọc và tham khảo các sách lí luận DH để tìm hiểu cơ sở lí luận cần thiết cho việc đổi mới phương pháp dạy học, phát triển tư duy sáng tạo cho HS. - Tìm hiểu các bài dạy bằng BĐTD để chọn bài phù hợp với nội dung. - Tìm hiểu thực tế nội dung kĩ năng qua các tiết dạy học của GV có áp dụng BĐTD. V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: - Chương trình, nội dung dạy môn Toán 4 bằng BĐTD VI. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: - Tìm hiểu thực trạng của việc dạy và học Toán nói chung, Toán 4 nói riêng - Tìm hiểu khung chương trình của phân môn Toán 4. Hệ thống kiến thức bằng BĐTD ở từng bài học, áp dụng BĐTD trong dạy học. - Đánh giá kết quả sau khi vận dụng BĐTD trong dạy học Toán 4 B. PHẦN THỨ HAI: NHỮNG BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO, BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN LỚP 4 DẠY HỌC TOÁN TỐT BẰNG BẢN ĐỒ TƯ DUY I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC TOÁN 4 BẰNG BĐTD CHO HỌC SINH 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Cơ sở khoa học về phương pháp dạy học theo BĐTD: Như chúng ta đã biết, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Bản thân mỗi phương pháp đều thể hiện những ưu, nhược điểm riêng của nó. Tuy nhiên, một phương pháp có nhiều ưu điểm, đáp ứng được yêu cầu đổi mới và có thể vận dụng tốt vào quá trình dạy học hiện nay đó chính là phương pháp BĐTD. BĐTD không những giúp các nhà quản lý, giúp người thầy đổi mới công tác quản lý, đổi mới phương pháp đạt hiệu quả mà còn giúp người thầy có một cái nhìn tổng thể nắm chắc mục tiêu, không bỏ sót việc. Sử dụng BĐTD người thầy sẽ hình dung ra toàn bộ các hoạt động của quá trình lên lớp và có thể dự kiến tốt được tình huống Sư phạm có thể xảy ra. Từ đó người thầy có thể tự tin hơn trong quá trình giảng dạy làm cho tiết học trở lên nhẹ nhàng, sinh động, hiệu quả không đơn điệu, nhàm chán. Còn đối với học sinh, sử dụng BĐTD trong học tập, các em sẽ biết cách học và tự học một cách có chủ đích, không thuộc lòng, thuộc vẹt một cách máy móc. Các em sẽ nhớ nhanh, nhớ lâu, hiểu sâu các kiến thức trọng tâm cơ bản, biết liên tưởng, liên kết thành một hệ thống các kiến thức có liên quan với nhau và đặc biệt các em có thể thuộc bài ngay tại lớp, tập trung được sức mạnh tập thể, tự tin và sáng tạo hơn. a. Bản đồ tư duy là gì? BĐTD hay còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, sơ đồ cây. Là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề...Bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Đây là một sơ đồ mở, nó phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. Với mục tiêu giúp chúng ta sử dụng tối đa khả năng của bộ não, Tony Buzan đã đưa ra sơ đồ tư duy để giúp mọi người thực hiện được mục tiêu này. b. Vai trò của bản đồ tư duy: BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì... và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác. BĐTD là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kêt hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của não bộ giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của não bộ. Nó được coi là sự lựa chọn cho toàn bộ trí óc hướng tới lối suy nghĩ mạch lạc. Theo nhà phát minh thì “một hình ảnh co giá trị hơn cả ngàn từ” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang đến cho BĐTD những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo” Ở vị trí trung tâm, BĐTD là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay khái niệm chủ đạo. Từ ý trung tâm hay hình ảnh trung tâm tỏa ra các nhánh chính, ta gọi là nhánh cấp 1, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các nhánh phụ gọi là nhánh cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được kết nối với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng. Theo một số kết quả nghiên cứu, BĐTD giúp thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não bộ chúng ta hoạt động. Khi có một thông tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại, chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại trước đó. Việc sử dụng các từ khóa, chữ số, màu sắc và hình ảnh sẽ đem lại một công dụng lớn vì huy động được cả ban cầu não phải và trái cùng hoạt động. Sự kết hợp này sẽ làm tăng cường các liên kết giữa hai bán cầu não và kết quả là tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não. BĐTD là một công cụ hữu ích trong học tập, giảng dạy vì chúng giúp GV và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay cuốn sách, bài báo hệ thống lại kiến thức đã học tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới Do sự kết hợp giữa đường nét, màu sắc, chữ viết và hình ảnh liên tưởng nên BĐTD như một “bức tranh hội họa - kiến thức”. Lứa tuổi tiểu học là lứa tuổi học mà chơi, chơi mà học, tò mò, hiếu động. Sự hứng thú, khả năng tập trung chú ý của HS thường được kích thích bởi những hình ảnh đẹp mắt - BĐTD phát huy được thế mạnh đó. Ưu điểm của cách ghi chép bằng bản đồ tư duy: - Lôgic, mạch lạc - Trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ do nó được thể hiện bởi màu sắc, liên kết, liên hệ giữa các ý của một vấn đề. - Nhìn thấy “bức tranh” tổng thể mà lại chi tiết - Dễ dạy, dễ học, dễ nhớ - Kích thích hứng thú học tập của học sinh - Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức - Giúp hệ thống hóa kiến thức - Giúp ôn tập kiến thức - Giúp ghi nhớ nhanh, nhơ sâu, nhớ lâu kiến thức Kiểu ghi chép của BĐTD thể hiện bằng hình ảnh, đường nét, màu sắc được trải theo các hướng không có tính tuần tự và có độ thoáng, giúp dễ dàng phát triển ý tưởng nhanh hơn so với cách ghi chép thông thường theo kiểu xuống dòng. Điểm mạnh nhất của BĐTD là giúp phát triển ý tưởng và không bỏ sót tưởng. Việc xây dựng được một hình ảnh thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạoBĐTD vừa giúp nhìn được khái quát toàn bộ vấn đề, vừa nhìn được cái cụ thể trong cái tổng thể đó. 1.2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo BĐTD: * Đối với học sinh: + BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển được tư duy. + Giúp học sinh học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa sự tư duy và sáng tạo của học mình, từ đó nhớ bài lâu và hiểu bài sâu. + Học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm: Phát huy tối đa tính sáng tạo, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của mình, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế vì vậy các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. - Đối với giáo viên: + Bản đồ tư duy - phương pháp dạy học bằng cách sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết, với sự tư duy tích cực không chỉ tạo hứng thú trong học tập của học sinh mà còn góp phần đổi mới và làm phong phú các phương pháp giáo dục tích cực. + Dạy học bằng BĐTD dành nhiều thời gian cho học sinh làm việc, chia sẻ với bạn bè, công việc của giáo viên đỡ vất vả nhiều so với cách dạy truyền thống. Dạy học bằng BĐTD giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học. Dạy học bằng phương pháp BĐTD giúp các em không thấy nhàm chán vì bài học dài dòng mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. + Dạy học bằng BĐTD sẽ nâng cao hiệu quả trong việc củng cố kiến thức, rèn các kỹ năng và phát triển tư duy lôgíc cho HS. Với chủ trương giảm tải nhưng không giảm yêu cầu, dạy bằng BĐTD sẽ làm cho cô và trò không bị mất thời gian vào các chi tiết vụn vặn, trùng lặp mà tập trung thảo luận sâu và phát triển vấn đề cốt lõi của bài. + Dạy học bằng BĐTD còn có tác dụng phân loại đối tượng học sinh: học sinh khá, giỏi phát huy được khả năng sáng tạo, lập BĐTD theo sự hiểu biết của mình hiểu bài, nhớ bài sâu và lâu. Trái lại học sinh học trung bình trở xuống khó tiếp cận vận dụng chậm, lười tư duy. Do đó dạy học theo BĐTD giáo viên cần dành thời gian hướng dẫn cho những đối tượng học sinh này nhiều hơn. 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1. Chương trình học Toán 4 học sinh được học: a. Về số và phép tính: * Số tự nhiên: - Đặc điểm chủ yếu của dãy số tự nhiên - Đọc, viết, so sánh, sắp xếp các số tự nhiên - Cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên - Tìm thành phần chưa biết - Tính giá trị của biểu thức có 3 dấu phép tính, biểu thức có chứa 1, 2, 3 chữ - Tính chất giao hoán, kết hợp, nhân 1 tổng với 1 số và vận dụng vào giải toán - Nhân, chia nhẩm với 10, 100, 1000, ; nhân số có 2 chữ số với 11 - Dấu hiệu chia hết cho 2; 3; 5; 9 * Phân số: - Nhận biết về PS; - Đọc, viết, tính chất, rút gọn PS, quy đồng mS, so sánh 2 PS - Cộng, trừ, nhân, chia PS b. Về đo lường: - Biết mới quan hệ giữa yến, tạ, tấn với kg; giây, phút, giờ; ngày và giờ, năm và thế kỉ; dm2 và cm2, dm2 và m2; km2 và m2 - Biết đổi các đơn vị đo đại lượng thông dụng c. Về các yếu tố hình học: - Nhận biết: góc tù, bẹt; 2 đường thẳng vuông góc, //; 1 số đặc điểm về cạnh, góc của hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành, hình thoi - Biết vẽ: đường cao tam giác, 2 đường thẳng vuông góc, 2 đường thẳng //; hình chữ nhật, hình vuông khi biết độ dài các cạnh - Biết thính chu vi, diện tích hình bình hành, hình thoi. d. Về yếu tố thống kê và tỉ lệ bản đồ - Biết đọc và nhận định các số liệu trên biểu đồ cột - Ứng dụng của tỉ lệ bản đồ vào thực tế e. Về giải toán có lời văn: - Biết tự tóm tắt bài toán bằng cách ghi ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ, hình vẽ. - Biết giải và trình bày bài giải các các bài toán có đến 3 bước tính, trong các bài toán: Tìm số TB cộng, tìm 2 số khi biết tổng và hiệu 2 số, tìm 2 số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ số của 2 số đó. 2.2. Thực trạng về việc dạy học Toán áp dụng bằng BĐTD ở Tiểu học nói chung, Toán 4 nói riêng: Từ 15 đến 20 năm nay, nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng BĐTD trong giảng dạy, học tập, làm việc, kinh doanh lập kế hoạch. Ở Việt Nam việc sử dụng BĐTD trong giảng dạy đã có từ lâu nhưng chỉ dưới dạng sơ đồ hệ thống kiến thức đơn giản và chỉ áp dụng cho một số bộ môn. Trong những năm gần đây, TS Trần Đình Châu và TS Đặng Thị Thu Thủy, cùng các cán bộ Viện Nghiên cứu Giáo dục Việt Nam, đã tìm tòi nghiên cứu để cụ thể hóa việc ứng dụng BĐTD vào dạy học tại Việt Nam. Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác, việc triển khai dạy học bằng BĐTD chính là một công cụ phù hợp mà các trường đang thực hiện để tiến hành giảm tải đạt chất lượng, làm phong phú thêm PPDH tích cực đã và đang thực hiện. Qua nắm bắt tình hình và trao đổi với GV khối 4 về việc giảng dạy có liên quan đến BĐTD bản thân tôi nhận thấy: a. Về phía giáo viên: Khi giảng dạy một tiết có liên quan đến BĐTD rất đơn giản, chỉ cần lấy sẵn một tiết nào đó có ở mạng Internet và chỉnh sửa đôi chút là được. Trong giáo án thì không thể hiện rõ từng bước tiến hành sử dụng BĐTD như thế nào, thông qua BĐTD giáo viên chưa hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách thiết kế và sử dụng nắm bắt kiến thức ở BĐTD ra sao. Bên cạnh đó một số giáo viên chưa thật sự chú trọng và còn tẻ nhạt với phương pháp dạy học này. - Đa phần GV còn ngại trong việc dạy này bởi vì thời gian chuẩn bị nhiều đối với các bài ôn tập chương, các đợn vị kiến thức lớn. - Trình độ tin học của GV còn hạn chế nên việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ vẽ BĐTD gặp khó khăn. - Các trang thiết bị hiện đại ở các lớp còn quá ít nên việc thể hiện nhiều tiết dạy có ứng dụng CNTT cùng lúc là không thể tiến hành được. Hầu hết các lớp không có máy chiếu đa vật thể nên việc chiếu kết quả học tập của HS còn khó khăn. b. Về phía học sinh: - Với địa bàn tương đối khó khăn, sự quan tâm của CMHS đến học sinh chưa nhiều, ham muốn học tập không rõ nét. Chính vì vậy, chất lượng học tập, sự sáng tạo, tư duy của học sinh còn yếu nên việc sử dụng BĐTD trong học tập của các em vẫn gặp khó khăn. Hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà giáo viên nói. - Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị đồ dùng học tập như giấy A4, bút màu, bút chì, tẩy hoặc bảng phụ trong tiết học Toán mà chỉ dùng cho trong tiết học Mỹ thuật. Mặt khác, học sinh chưa hiểu rõ cách thể hiện nội dung, kiến thức như thế nào trong việc thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy. - HS các lớp dưới GV ít dùng BĐTD nên ở lớp 4 dạy học bằng BĐTD sẽ gặp khó khăn. II. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO GIÚP GIÁO VIÊN DẠY HỌC TOÁN 4 BẰNG BẢN ĐỒ TƯ DUY. 1. Giới thiệu một số phần mềm dùng để tạo BĐTD: Một BĐTD có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với các loại bút màu khác nhau, tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa. Một giải pháp được hướng đến là sử dụng các phần mềm để tạo ra sơ đồ tư duy. Một số phần mềm tiêu biểu trong thể loại “phần mềm mind mapping” (mind mapping software). Phần mềm Buzan’s iMindmap™: một phần mềm thương mại, tuy nhiên có thể tải bản dùng thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online Ltd. thực hiện. Trang chủ tại www.imindmap.com Phần mềm Inspiration: sản phẩm thương mại của công ty Inspiration Software, Inc. Sản phẩm có phiên bản dành cho trẻ em (các em từ mẫu giáo đến lớp 5) rất dễ dùng và nhiều màu sắc. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại www.inspiration.com Phần mềm Visual Mind: sản phẩm thương mại của công ty Mind Technologies. Phần mềm dễ sử dụng và linh hoạt trong sắp xếp các nút chứa từ khóa. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại www.visual-mind.com Phần mềm FreeMind: sản phẩm hoàn toàn miễn phí, được lập trình trên Java. Các icon chưa được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ chức năng để thực hiện mind mapping. Trang chủ tại: Ngoài ra, chúng ta còn có thể tham khảo một danh sách các phần mềm loại mind mapping tại địa chỉ sau: 2. Các biện pháp chỉ đạo, bồi dưỡng giáo viên khối 4 dạy tốt - học tốt bằng BĐTD ở môn Toán: 2.1. Chỉ đạo giáo viên sử dụng các phần mềm thiết kế BĐTD: Để vận dụng BĐTD vào quá trình dạy, trước hết cần phải vẽ thiết kết BĐTD trên phần mềm. Các bước để thiết kế một BĐTD trên phần mềm: Bước 1: Xác định từ khóa Mind Map được tạo thành bởi hầu hết các từ khóa (key word) nên nó tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho giáo viên. Chỉ với những từ khóa giáo viên đã có thể nắm bắt được hết nội dung của tất cả những điều đang muốn ghi nhớ rồi. Vậy từ khóa là gì? Làm sao xác định được từ khóa trong một bài, một chương: Đầu tiên, giáo viên cần nghiên cứu kỹ mục tiêu, nội dung từng dạng bài, từng chương nên tự tập cho mình thói quen chỉ chú ý đến từ khóa, ghi nhớ từ khóa là đủ để chúng ta nắm bắt được toàn bộ nội dung cần truyền
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_chi_dao_boi_duong_gia.doc