Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông

«Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế đặc biệt trong việc phát triển con người toàn diện: “.giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ . có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Đây là hành trang cần thiết để hình thành nhân cách con người và văn hóa Việt Nam, giúp thế hệ trẻ vươn lên trong cuộc sống và hội nhập với thế giới».[6]

Học tập để lĩnh hội tri thức là rất quan trọng đối với con người ở mọi thời đại. Học mọi nơi, mọi lúc, học bằng mọi nguồn tài liệu và kênh thông tin khác nhau, học rộng, hiểu sâu, biết được nhiều nguồn tri thức của nhân loại. Từ khi các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống thông tin liên lạc phát triển, việc dạy và học đã có nhiều thuận lợi. Một vấn đề thiết thực hiện nay tôi thấy là: các môn học trong chương trình phổ thông đã bao quát một cách khái quát những vấn đề cơ bản của tự nhiên, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của con người. Các môn học trong chương trình không hề tách rời thực tế vận dụng vào cuộc sống. Tri thức do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất, qua lịch sử phát triển. Đối với các em học sinh, nhận thức được nguồn tri thức trên nhiều mặt, từ tri thức về khoa học tự nhiên đến tri thức về khoa học xã hội và nhân văn, là điều rất cần thiết, giúp các em có cách nhìn toàn diện, nhận thức sâu sắc về tự nhiên, về xã hội loài người, về thế giới, có cách hành dụng để giải quyết các vấn đề thực tiễn.

 

doc 22 trang thuychi01 9440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
“Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường THPT” 
A. MỞ ĐẦU Trang
I. Lý do chọn đề tài.. ................................................................................. 2-3-4
II. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 4
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 4
IV. Phương pháp nghiên cứu 	............................................................................ 4-5
B. NỘI DUNG
I. Nhận thức khái quát về việc hình thành năng lực cho học sinh .5
1. Năng lực cơ bản của học sinh THPT và năng lực chuyên biệt môn Lịch sử .........5
2. Tầm quan trọng của việc hình thành năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử 5 
3. Khái quát việc hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường THPT ...............6-7
II. Những trường hợp vận dụng cụ thể	 .....................................................................8 
1. Với chương trình lịch sử lớp 10 : ..................................................... ..8-9-10-11
2. Với chương trình lịch sử lớp 11 : ............................................ .12-14-15
3. Với chương trình lịch sử lớp 12 :...........................................................16-17-18-19
III. Một số vấn đề lưu ý khi hình thành năng lực cho học sinh qua bài học Lịch sử ở trường THPT ........................................................ 20
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................21
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 22
ĐỀ TÀI 
“HÌNH THÀNH MỘT SỐ NĂNG LỰC CHO HỌC SINH QUA BÀI HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
«Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế đặc biệt trong việc phát triển con người toàn diện: “...giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ ... có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Đây là hành trang cần thiết để hình thành nhân cách con người và văn hóa Việt Nam, giúp thế hệ trẻ vươn lên trong cuộc sống và hội nhập với thế giới».[6]
Học tập để lĩnh hội tri thức là rất quan trọng đối với con người ở mọi thời đại. Học mọi nơi, mọi lúc, học bằng mọi nguồn tài liệu và kênh thông tin khác nhau, học rộng, hiểu sâu, biết được nhiều nguồn tri thức của nhân loại. Từ khi các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống thông tin liên lạc phát triển, việc dạy và học đã có nhiều thuận lợi. Một vấn đề thiết thực hiện nay tôi thấy là: các môn học trong chương trình phổ thông đã bao quát một cách khái quát những vấn đề cơ bản của tự nhiên, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của con người. Các môn học trong chương trình không hề tách rời thực tế vận dụng vào cuộc sống. Tri thức do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất, qua lịch sử phát triển. Đối với các em học sinh, nhận thức được nguồn tri thức trên nhiều mặt, từ tri thức về khoa học tự nhiên đến tri thức về khoa học xã hội và nhân văn, là điều rất cần thiết, giúp các em có cách nhìn toàn diện, nhận thức sâu sắc về tự nhiên, về xã hội loài người, về thế giới, có cách hành dụng để giải quyết các vấn đề thực tiễn. 
Tri thức của loài người mênh mông, vô tận. Tri thức về lịch sử nói riêng bao hàm những vấn đề từ quá khứ nhiều triệu năm đến hiện tại và dự đoán cả tương lai. Cái hay của nguồn tri thức lịch sử là ở chỗ, lịch sử diễn ra khi nào, nhân vật nào, ở đâu, có ý nghĩa, giá trị và tác động như thế nào. Nói khác đi, nhận thức lịch sử nhằm hiểu quá khứ, đánh giá hiện tại và dự đoán cả tương lai. Mỗi sự kiện lịch sử dù thành công hay thất bại đều để lại bài học quý giá. Liên hệ tốt quá khứ giúp con người có cách hành xử phù hợp trong hiện tại và dự đoán quy luật phát triển. Nắm được tri thức lịch sử không chỉ nhớ các sự kiện, nhân vật, thời gian, địa danh ... mà còn phải biết đánh giá, nhận định và hiểu về bản chất của nó.
Sự kiện lịch sử chỉ có một, nhưng cách nhìn, cách hiểu, cách đánh giá về nó sẽ có rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Một trong những năng lực mà học sinh hiện nay đang thiếu là quan điểm đánh giá sự kiện lịch sử, đồng thời rút ra bài học từ những sự kiện quan trọng, giúp ích cho nhận thức và cuộc sống. Muốn đánh giá các vấn đề lịch sử một cách chính xác, khoa học, đúng đắn phải dựa vào một sự kiện lịch sử cụ thể, có thật, và phải dựa trên quan điểm lập trường đúng đắn.
Học lịch sử: Để làm tốt bài thi lịch sử; để đánh giá tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và thế giới, xu thế phát triển của loài người; để «ôn cố tri tân». Chẳng hạn, khi nhận thức về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước, học sinh cần nhận thức đúng rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những vùng lãnh thổ không thể tranh cãi của Việt Nam. Công ước Luật biển năm 1982 cũng quy định quần đảo Hàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Học sinh cần phải biết bằng chứng lịch sử về việc khai phá các quần đảo này của cha ông ta, cũng như bằng chứng pháp lí quốc tế, trong đó có cả những bản đồ do chính người Trung Quốc vẽ.[6]
Chương trình lịch sử Trung học phổ thông là một lợi thế để học sinh bồi dưỡng các năng lực của mình, mà một trong những năng lực quan trọng nhất là nhìn nhận, đánh giá, bày tỏ quan điểm của các em về các nhân vật, các triều đại, các sự kiện lịch sử tiêu biểu... Muốn làm tốt điều đó, giáo viên cũng phải tốt về nghiệp vụ, chuyên môn, giúp học sinh hình thành các năng lực cơ bản. Vì lí do đó, tôi chọn nghiên cứu đề tài: "Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường THPT” nhằm trang bị thêm cho các em học sinh những kiến thức lịch sử quan trọng, có giá trị, từ đó vận dụng giải quyết các tình huống mang tính thực tiễn.
II. Mục đích nghiên cứu.
Từ đề tài nghiên cứu này, giúp học sinh hình thành một số năng lực cơ bản để nhận thức tốt vấn đề lịch sử, đồng thời có thể áp dụng được các kĩ năng, kĩ xảo trong từng tình huống cụ thể. 
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và thực tế dạy học, giúp học sinh ghi nhớ, áp dụng nhanh chóng, hiệu quả.
Đề tài cũng giúp cá nhân tôi nâng cao nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn, có cơ hội trao đổi chuyên môn, học hỏi kinh nghiệm phương pháp dạy học lịch sử, mở rộng thêm kiến thức về chính trị, văn hóa, xã hội.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu được áp dụng cho học sinh khối lớp 10, 11, 12 - chương trình THPT - ban Cơ bản.
Với phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm ở trường THPT, Đề tài chỉ đề cập đến một số vấn đề của môn học Lịch sử ở chương trình THPT, đó là:
Học sinh nâng cao hiệu quả học tập, nhận thức lịch sử. 
Hướng dẫn cho các em cách hiểu, vận dụng, đánh giá lịch sử trên cả hai phương diện: yếu tố “sử” (nhớ) và yếu tố “luận” (hiểu, đánh giá, bày tỏ quan điểm...). 
VI. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng kiến thức lịch sử chương trình THPT nhằm lí giải, đánh giá các sự kiện, hiện tượng, vấn đề lịch sử:
- Mở rộng, lý giải, bình luận, đánh giá các sự kiện lịch sử trong nước từ thời cổ đại đến thời cận đại, hiện đại;
- Mở rộng, lý giải, bình luận, đánh giá các sự kiện lịch sử thế giới từ thời cổ đại đến thời cận đại, hiện đại, từ đó liên hệ tình hình trong nước ;
- Liên hệ, so sánh, hướng dẫn, phân loại các hiện tượng, vấn đề lịch sử để có thể giải quyết các câu hỏi, tình huống, bài tập liên hệ thực tiễn.
B. NỘI DUNG
I. Nhận thức khái quát về việc hình thành một số năng lực cho học sinh.
1. Các năng lực cơ bản của học sinh THPT và năng lực chuyên biệt của bộ môn Lịch sử.
Hiện nay, việc dạy học hướng tới hình thành cho học sinh các phẩm chất và năng lực. Các năng lực chung bao gồm 9 năng lực: Tự học; Giải quyết vấn đề; Sáng tạo; Tự quản lý; Giao tiếp; Hợp tác; Sử dụng CNTT; Sử dụng ngôn ngữ; Tính toán. Trong dạy học lịch sử, việc hình thành năng lực chuyên biệt bộ môn là rất cần thiết. Học lịch sử, ngoài những vấn đề như nêu, liệt kê, trình bày, kể tên nhằm tái hiện, khôi phục lại quá khứ lịch sử đã diễn ra, học sinh cũng cần hướng tới các năng lực cao hơn như giải thích, phân biệt, trả lời tại sao, vì sao, lí giải, ... và hướng tới vận dụng ở các cấp độ thấp và cao như xác định, khám phá, dự đoán, liên hệ, so sánh, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét, đánh giá, rút ra bài học, liên hệ thực tiễn. Chẳng hạn, học sinh cần viết một bài bình luận về vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, hoặc viết một bài bình luận về trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX...[8] Nhìn chung, hình thành năng lực cho học sinh, trong đó có năng lực trong học tập bộ môn lịch sử là cần thiết nhằm giải quyết tốt hơn những tình huống mang tính vận dụng, thực tiễn.
2. Tầm quan trọng của việc hình thành năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử.
Theo lời Tiến sĩ Nguyễn Anh Dũng - Bộ phận thường trực đổi mới chương trình SGK phổ thông, Bộ GD&ĐT: Chương trình theo cách tiếp cận nội dung thì dạy cho học sinh biết cái gì; Còn chương trình hướng đến năng lực cho học sinh là học sinh làm được gì trên cơ sở các em biết. Như vậy năng lực là đích, là đầu ra của giáo dục. Với cách tiếp cận như vậy nó sẽ chi phối các yếu tố của chương trình như mục tiêu- tức là dạy để làm gì; nội dung dạy học - tức dạy cái gì; phương pháp và hình thức tổ chức dạy học - tức là học bằng cách nào; và cuối cùng là thi, kiểm tra, đánh giá và chất lượng giáo dục.[9] Với quan điểm như trên thì dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, nhiều giáo viên cần hướng tới hình thành các phẩm chất và năng lực cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn vấn đề: "Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường THPT” (chương trình Cơ bản).
Chương trình, SGK Lịch sử ở trường phổ thông trong nhiều năm đã đổi mới về nội dung và phương pháp biên soạn. Từ năm học 2011 – 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa Chuẩn kiến thức, kĩ năng và Hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học môn lịch sử, điều đó tạo điều kiện tốt hơn về thời gian để giáo viên có thể hình thành một số năng lực bộ môn cho học sinh, lược bớt những nội dung rườm rà, trùng lặp, tiểu tiết, góp phần khắc phục tình trạng quá tải trong dạy học. Giáo viên và học sinh cũng có điều kiện thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục. Nội dung chương trình lịch sử THPT-SGK đã được điều chỉnh giảm tải nhưng vẫn còn dài. Do vậy, người dạy và người học cần hướng tới những nội dung cơ bản, cốt lõi của chương trình, vừa phải nắm kiến thức khái quát, vừa lĩnh hội kiến thức trọng tâm, cơ bản và có phần chuyên sâu. 
Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường THPT ngay trong quá trình dạy và học sẽ giúp các em lĩnh hội lượng kiến thức vừa khái quát lại vững chắc, từ đó hình thành các kĩ năng hành dụng cụ thể như giải quyết các câu hỏi, bài tập, liên hệ kiến thức lịch sử quá khứ với hiện tại, trình bày quan điểm nhận thức, đánh giá vấn đề, hiểu sâu hơn về đời sống chính trị - kinh tế - xã hội, vận dụng giải quyết các đề thi THPT Quốc gia theo tinh thần mới. 
 3. Khái quát việc hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường THPT.
Việc hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học lịch sử ở trường THPT làm cho hiệu quả của bài học lịch sử nói riêng, môn học Lịch sử nói chung được nâng cao, giúp cho học sinh hứng thú hơn trong tìm hiểu bài học, đồng thời làm cho các em hình dung được một cách chân thực, sinh động về những sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá khứ. Chẳng hạn, khi học về cuộc đấu tranh của nhân dân ta thời kì Bắc thuộc, học sinh sẽ hình thành năng lực khái quát về truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông ta, các em sẽ có thái độ biết ơn Tổ tiên, những anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước, tự hào hơn về truyền thống vẻ vang, hào hùng của dân tộc một thời.
Công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi giáo dục và đào tạo cũng phải đổi mới. Giáo dục – đào tạo phải đào tạo những con người toàn vẹn, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Mỗi môn học trong nhà trường phổ thông với đặc trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ. Môn học Lịch sử với đặc trưng riêng, phù hợp, có giá trị đặc biệt với việc đào tạo, xây dựng phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam. Mặc dù vậy, môn học Lịch sử hiện nay chưa được xã hội và học sinh quan tâm đúng mức. Vì Lịch sử là những gì đã xảy ra trong quá khứ, từ rất xa xưa; những gì còn lại ngày nay chỉ là những ghi chép chung, khó nhớ... Khổng Tử đã từng nói “Ôn cố nhi tri tân”. Biết được Lịch sử ta sẽ có cách nhìn nhận, hiểu về hiện tại một cách đúng đắn và dự đoán tương lai. Lịch sử tái hiện lại những trang sử hào hùng của dân tộc, về cuộc đấu tranh anh dũng, về công cuộc dựng nước và giữ nước của cha ông ta từ ngàn xưa. Lịch sử cũng tái hiện đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, sự tiến hóa đi lên của loài người.[4] Vậy nên, Lịch sử cần phải được tiếp nhận một cách đúng đắn, được lưu giữ, phải được “nhớ” và “hiểu” một cách trọn vẹn. Nhớ để học hỏi, để biết ơn, hiểu để rút ra bài học bổ ích, để vận dụng vào thực tiễn hợp lí. Muốn làm được điều đó, học sinh phải có những năng lực thực sự.
Trước thực trạng  môn Lịch sử chưa được coi trọng đúng mức, bài viết này, tôi nêu những ví dụ về sử dụng kiến thức lịch sử nhằm phát triển một số năng lực cho học sinh trong chương trình Lịch sử THPT, ban Cơ bản. 
II. Những trường hợp vận dụng cụ thể
1. Với chương trình lịch sử lớp 10
Bài 5: “Trung Quốc thời phong kiến”.[1] Ở bài này, học sinh cần lĩnh hội kiến thức về thành tựu văn hóa và đối ngoại của Trung Hoa thời phong kiến, bên cạnh đó, học sinh cần nhận xét, đánh giá khách quan về thành tựu văn hóa to lớn mà Trung Quốc đạt được đóng góp vào văn hóa-văn minh chung của nhân loại. Giáo viên có thể định hướng để học sinh suy nghĩ “Em có suy nghĩ gì về những thành tựu tiêu biểu của văn hóa Trung Quốc thời phong kiến?”. Học sinh cũng cần phải đánh giá được về chính sách đối ngoại của các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với láng giềng, trong đó có Việt Nam. Học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử Trung Quốc, trong đó có chính sách đối ngoại. Một trong những nét chung về chính sách đối ngoại đó là tư tưởng bành trướng, bá quyền nước lớn của Trung Quốc từ xưa đến nay. Từ đó, giáo viên có thể định hướng giúp các em liên hệ với ngày nay, sự hung hăng của Trung Quốc trong vấn đề biên giới, chủ quyền biển đảo. Học sinh sẽ rút ra bài học cảnh giác trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam trước mọi âm mưu và thủ đoạn của “người láng giềng khổng lồ” này. 
Bài 11: “Tây Âu thời hậu kì trung đại”.[1] Ở bài này, kiến thức được học sinh lĩnh hội là xác định các cuộc phát kiến địa lí lớn trên thế giới, liên quan đến các nước đi tiên phong và các nhà phát kiến nổi tiếng.
 [5]
Năng lực hình thành cho học sinh là đánh giá một cách khách quan hệ quả của công cuộc phát kiến địa lí. Câu hỏi định hướng là “Em hãy đánh giá hệ quả của công cuộc phát kiến địa lí, cuối thế kỉ XV-đầu thế kỉ XVI”. Về mặt tích cực, nó đem lại cho loài người nhiều giá trị to lớn về khoa học, địa lí, văn hóa, lịch sử, dân tộc... Tuy nhiên công cuộc này cũng nảy sinh hậu quả tiêu cực không nhỏ, một trong số đó là chính sách cướp bóc thuộc địa và nạn buôn bán nô lệ - một vết nhơ trong lịch sử nhân loại. 
Bài 15: “Thời Bắc thuộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc”.[1] Kiến thức học sinh cần lĩnh hội ở bài này là chính sách cai trị của phong kiến phương Bắc đối với nước ta, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống lại quân xâm lược phong kiến phương Bắc. Năng lực hình thành cho các em chính là đánh giá bản chất của các triều đại phong kiến phương Bắc, trong đó đáng chú ý là chính sách “đồng hóa”. Tuy nhiên, học sinh cũng đánh giá được rằng qua cả nghìn năm Bắc thuộc, không khi nào nhân dân ta không nổi dậy đấu tranh, và nhân dân ta cũng không hề bị đồng hóa. Các em có thể liên hệ ngày nay về chính sách bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc, nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợ, phải tìm mọi cách bảo vệ chủ quyền đất nước. Câu hỏi định hướng năng lực cho học sinh là “Từ tinh thần yêu nước của cha ông ta, trách nhiệm của thanh niên – học sinh đối với việc bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc hiện nay?”.
 [5]
Bài 19: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các thế kỉ X – XV”. [1].Kiến thức học sinh cần lĩnh hội là nắm khái quát các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm tiêu biểu của nhân dân ta các thế kỉ X-XV. Với một số thuật ngữ như “tiên phát chế nhân”, “vườn không nhà trống”,  các em hiểu hơn về nghệ thuật đánh giặc của cha ông. Giáo viên giúp học sinh liên hệ ngày nay, cha ông ta từng đánh thắng nhiều thế lực ngoại xâm hung bạo lớn mạnh hơn ta nhiều lần, quyết giữ trọn bờ cõi đất nước, cương vực lãnh thổ. Không có lí nào ngày nay chúng ta không phát huy tinh thần đó để xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước.
Bài 25: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII”. [1].Kiến thức được học sinh lĩnh hội là diễn biến quá trình đánh đổ các tập đoàn phong kiến (Lê-Trịnh ở đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở đàng Trong) của nghĩa quân Tây Sơn, thống nhất đất nước và kháng chiến đánh bại quân xâm lược Xiêm, Thanh. Năng lực hình thành cho các em là đánh giá vai trò của phong trào nói chung, của Nguyễn Huệ nói riêng trong sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII. Ngoài ra, cũng cần đánh giá được tính chung thủy của mỗi nhân vật Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ trong phong trào nông dân Tây Sơn. Nếu Nguyễn Nhạc đi vào con đường phong kiến hóa sớm, Nguyễn Lữ ít tài, ít đóng góp cho đất nước thì Nguyễn Huệ là nhân vật chung thủy và có đóng góp to lớn nhất trong phong trào. Học sinh cũng cần hiểu một điều nữa, là sự nghiệp thống nhất đất nước vẫn chưa trọn vẹn, vì 3 anh em đã chia đất nước thành 3 vùng, mỗi người quản một vùng. Như vậy, một số câu hỏi có thể đặt ra là “Đánh giá ngắn gọn vai trò của phong trào nông dân Tây Sơn đối với đất nước, cuối thế kỉ XVIII.”, “Công lao của Nguyễn Huệ được thể hiện như thế nào đối với đất nước cuối thế kỉ XVIII?”...
2. Với chương trình lịch sử lớp 11
 Bài 5: «Các nước Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX». [2].Ở bài này, kiến thức học sinh cần nắm là quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân vào Đông Nam Á và quá trình chống xâm lược của nhân dân Đông Nam Á. Liên hệ Việt Nam, cũng là một nước Đông Nam Á, có vị trí chiến lược quan trọng, không tránh khỏi số phận bị phương Tây xâm lược. Tuy nhiên cũng cần cho các em làm thử phép liên hệ so sánh. Nước Xiêm, nhờ những cải cách tiến bộ và chính sách ngoại giao mềm dẻo, khéo léo của triều đình Rama-IV, Rama-V, đã thoát khỏi thân phận bị biến thành thuộc địa. Cũng trong điều kiện đó nhưng ở Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn đã không làm được như triều đình Rama-IV, Rama-V ở Xiêm. Từ đó, học sinh xác định đúng đắn hơn vai trò, trách nhiệm của nhà Nguyễn đối với việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Một bài học nữa cũng được rút ra về công cuộc duy tân, đổi mới nhằm đưa đất nước thích ứng với những biến đổi to lớn của thời đại. Giáo viên có thể định hướng hình thành năng lực liên hệ hoặc đánh giá cho học sinh bằng một số câu hỏi, như: “Hãy đánh giá trách nhiệm của triều đình nhà Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp, cuối thế kỉ XIX” (và ghi chú: các em hãy suy nghĩ trước, tới học kì II, phần Lịch sử Việt Nam 1858-1918, chúng ta sẽ trả lời đầy đủ câu hỏi này), “Đánh giá vai trò của triều đình Rama-IV, Rama-V trong việc bảo vệ độc lập dân tộc của Xiêm, cuối thế kỉ XIX.”.
 Bài 9 : «Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917... ».[2] Ở bài này, kiến thức học sinh cần lĩnh hội khá rộng. Từ hoàn cảnh lịch sử đến diễn biến, kết quả, ý nghĩa to lớn của Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917. Cần hình thành năng lực lí giải, liên hệ và đánh giá tác động to lớn của Cách mạng tháng 10 đối với phong trào cách mạng thế giới. Những tư tưởng vĩ đại của Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình cách mạng thế

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_hinh_thanh_mot_so_nang_luc_cho_hoc_sin.doc
  • docBIA SKKN HUYEN SU 2017.doc