Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Trung học Phổ thông qua bài học Giáo dục công dân

Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Trung học Phổ thông qua bài học Giáo dục công dân

Mục đích nghiên cứu.

Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại.

3. Đối tượng nghiên cứu.

 Học sinh trường THPT số 2 Bảo Yên. Năm học 2013 - 2014

4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu.

 Tích hợp nội dung về giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD trong trường THPT.

 Tập trung nghiên cứu tích hợp các kĩ năng cho học sinh gắn với thực tiễn đời sống, đáp ứng yêu cầu của xã hội.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Giáo dục các kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống thường ngày cho học sinh THPT.

 

doc 20 trang cuonglanz2a 10440
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Trung học Phổ thông qua bài học Giáo dục công dân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC VIẾT TẮT
Stt
Danh mục được viết tắt
Nội dung
1
GD&ĐT
Giáo dục và đạo tạo
2
THPT
Trung học phổ thông
3
KNS
Kĩ năng sống
4
GDCD
Giáo dục công dân
5
SGK
Sách giáo khoa
6
SGV
Sách giáo viên
7
KTKN
Kiến thức kĩ năng
8
HS
Học sinh
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
Phần I: Mở đầu
 1. Lý do chọn đề tài
 2. Mục đích nghiên cứu
 3. Đỗi tượng nghiên cứu
 4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu
 5. Nhiệm vụ nghiên cứu
 6. Phương pháp nghiên cứu
 7. Thời gian nghiên cứu
3
3
5
6
6
6
6
6
Phần II: Nội dung của đề tài
 1. Cơ sở nghiên cứu đề tài
 2. Thực trạng nghiên cứu đề tài
 3. Quá trình và giải pháp thực hiện
 4. Phương pháp thực hiện
 5. Một số lưu ý khi thực hiện
 6. Kết quả đạt được
 7. Bài học kinh nghiệm
 8. Kết luận
 9. Kiến nghị, đề xuất
6
7
9
10
12
13
14
17
17
19
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC: 2013 - 2014
ĐỀ TÀI
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THPT 
QUA BÀI HỌC GIÁO DỤC CÔNG DÂN.
I. Mở đầu:
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, hội nhập có không ít gia đình bố mẹ mải mê kiếm tiền nuôi gia đình không quan tâm đến việc giáo dục các con, bên cạnh đó tình trạng bùng nổ công nghệ thông tin cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục các kĩ năng cần thiết cho các em. Lứa tuổi học sinh trung học là lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách sống nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là hết cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại.
1. Lý do chọn đề tài:
	Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta nói chung và ở địa phương nói riêng hiện nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ bên cạch những thành tựu của khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão trên thế giới mở ra thời kỳ hội nhập quốc tế làm cho con người tiếp cận với những tri thức nhanh hơn, hiệu quả hơn.bên cạnh đó kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS, cộng với sự phối hợp của các ngành chức năng còn lỏng lẻo, một mặt các em chưa được sự quan tâm chăm sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ chỉ biết lao vào kiếm tiền mà không quan tâm gì đến việc học tập, sinh hoạt và những hoạt động khác của con em mình như thế nào; mặt khác về phía nhà trường thì nội dung chương trình giáo dục đạo đức – giáo dục công dân có bài còn nặng về lý thuyết, ít liên hệ với thực tiễn địa phương.
	Thực tế hiện nay một bộ phận lơn học sinh còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo đức, lối sống. Đắc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua đòi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng thiếu ý trí vươn lên tự buông thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp luật, đạo đức.
	Vấn đề học sinh hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, bản thân đang là những càn trở lớn cho sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc phụ huynh làm cha làm mẹ phải phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng học sinh này trong xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học tập.
	Vấn đề khác là tình trạng bạo lực học đường ngày càng tăng và có dấu hiệu lan rộng làm cho học sinh lo lắng làm thế nào để bảo vệ mình an toan khi đi học từ nhà đến trường khi có nhóm đối tượng xấu rình rập, ức hiếp những học sinh ngoan hiền. nhiều học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, luôn đắm mình vào thế giới ảo của Internet của thế giới game., mà quyên đi hoặc đánh mất những cơ hội kết bạn, thể hiện khả năng tiềm ẩn của mình trước đám đông và ngoài xã hội.
	Trước những yêu cầu thiết thực trên bộ môn GDCD giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi người công dân, phát triển tâm lực và nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên, khi xem xét về phương diện nào đó thì vai trò của môn học này chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn như nó vốn có, đặc biệt GDCD lớp 12. Ở năm học cuối cấp, học sinh chịu nhiều áp lực bởi chương trình học nặng hơn cũng như lo lắng nhiều cho việc thực hiện ước mơ hoài bão bằng con đường thi cử. Các em đa số chú tâm, giành nhiều thời gian cho những môn học mà tới các em sẽ thi tốt nghiệp và thi Đại học. Bộ môn GDCD thường bị các em coi nhẹ, “học đối phó để lấy điểm” . Vì vậy cần tích cực đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học là rất cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, của học sinh; mặt khác góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực và những công dân mới có tính năng động, sáng tạo, thích ứng với cơ chế thị trường, có phẩm chất và năng lực để thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở nước ta hiện nay và phù hợp với xu thế chung của thời đại.
	Các em học sinh lớp 10 mới bước chân vào môi trường học mới, môi trường cấp học THPT đặc biệt các em người dân tộc thiểu số phải trọ học xa gia đình thì các em chưa thực sự tự tin, còn rụt rè lúc này có những mối quan hệ xung quanh như: kết bạn, mối quan hệ giữa thày, cô, nhà trường và xã hội.. với các quan hệ phức tạp ấy, các em cần có những kĩ năng để tiếp cận trước những lôi cuốn của bạn bè xấu sẽ ảnh hưởng kết quả học tập về sau.
	Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của bộ môn GDCD trong việc giáo dục hình thành nhân cách học sinh cấp THPT, trong thời gian qua nhà trường đã tạo mọi cơ hội cho việc giáo dục đạo đức học sinh học chính khóa, ngoại khóa đã từng bước kịp thời uốn nắn các em.
	Tuy nhiên trong thực tế tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận học sinh hiện nay như: Lối sống buông thả, bạo lực học đường, sống thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. đây cũng là điều khiến tôi phải suy nghĩ trước quyết định viết sáng kiến này. Tôi xin trình bày những điều rút ra từ thực tiễn rất mong được sự chia sẻ của đồng nghiệp cùng đóng góp trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cấp THPT hiện nay.
	Với phạm vi đề tài tôi xin mạnh dạn trình bày ở đây là ứng dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực khác nhau nhằm tích hợp giáo dục kĩ năng sống qua giảng dạy bộ môn GDCD nhằm góp phần vào mục tiêu chung của trường
2. Mục đích nghiên cứu.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại.
3. Đối tượng nghiên cứu.
	Học sinh trường THPT số 2 Bảo Yên. Năm học 2013 - 2014
4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu.
	Tích hợp nội dung về giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD trong trường THPT. 
	Tập trung nghiên cứu tích hợp các kĩ năng cho học sinh gắn với thực tiễn đời sống, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Giáo dục các kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống thường ngày cho học sinh THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu.
a. Cơ sở lý luận nghiên cứu: 	
Các tài liệu liên quan phục vụ cho tích hợp giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh nói chung học sinh cấp THPT nói riêng.
b. Phương pháp điều tra nghiên cứu: 
Kết hợp các phương pháp như tìm hiểu, nghiên cứu, nêu gương, điều tra phỏng vấn học sinh, phụ huynh học sinh và lấy ý kiến của các tổ chức đoàn thể trong trường. 
7. Thời gian nghiên cứu:
Với vấn đề nghiên cứu và vận dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân về giáo dục tích hợp KNS cho học sinh trường THPT được vận dụng trong một năm học 2012 - 2013.
Trên cơ sở những kết quả đã thu thập sẽ phân tích tác động qua lại và tổng hợp một số kinh nghiệm trong việc tích hợp giáo dục KNS qua môn học cho học sinh trường THPT.
II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở nghiên cứu của đề tài.
1.1. Cơ sở pháp lý: 
Tài liệu giáo dục tích hợp kĩ năng sống.
Các giá trị sống cần thiết trang bị cho học sinh.
Các phóng sự, video về tích hợp giáo dục kĩ năng cần thiết.
1.2. Cơ sở lý luận:
Thực hiện theo các văn bản hướng dẫn, quán triệt về việc giáo dục tích hợp cho học sinh. 
Nghiên cứu tài liệu về giáo dục kĩ năng sống cần thiết cho học sinh cấp THPT.
Giáo dục kĩ năng sống (KNS) là một nội dung quan trọng được thực hiện một cách có hệ thống trong nhà trường. Giáo dục KNS giúp học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục KNS giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống.
	Môn GDCD ở trường THPT có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh, là một môn học có nhiều khả năng giáo dục KNS cho HS, điều đó được thể hiện:
	Nhiệm vụ và nội dung môn GDCD chứa đựng những yếu tố của giáo dục KNS, phù hợp với trọng tâm của giáo dục KNS là quá trình đối thoại, tương tác lẫn nhau, sử dụng vốn kinh nghiệm của người học để thực hành kĩ năng; phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các vấn đề của cuộc sống.
	Một trong những đặc điểm của môn GDCD là sự tích hợp nhiều nội dung giáo dục, trong đó có các nội dung giáo dục về các vấn đề xã hội. Vì vậy, việc tích hợp nội dung giáo dục KNS vào môn GDCD là điều có thể thực hiện và phù hợp với xu thế hiện nay.
	Việc giáo dục các chuẩn mực xã hội không thể chỉ xuất phát từ yêu cầu nhà giáo mà phải xuất phát từ quyền lợi và nhu cầu phát triển của học sinh. Giáo dục KNS giúp học sinh có những kĩ năng thiết thực để sống an toàn, lành mạnh, có hiệu quả, do đó học sinh hứng thú học tập và lĩnh hội các chuẩn mực một cách chủ động, tự giác.
	Từ khả năng giáo dục KNS trong môn GDCD được xác định là hết sức quan trọng và cần thiết, mục tiêu giáo dục KNS trong môn GDCD cũng được xác định rõ ràng.
	Giáo dục KNS trong môn GDCD ở trường THPT nhằm giúp học sinh:
Hiểu được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân có thể sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất và tinh thần.
Có kĩ năng làm chủ bản thân, biết xử trí linh hoạt trong các tình huống giao tiếp hằng ngày; có kĩ năng tự bảo vệ mình; rèn luyện lối sống có trách nhiệm với bản thân, bè bạn, gia đình và cộng đồng.
Có nhu cầu rèn luyện KNS trong cuộc sống hằng ngày; ưa thích lối sống lành mạnh, có thái độ phê phán đối với những biểu hiện thiếu lành mạnh; tích cực, tự tin tham gia các hoạt động, có quyết định đúng đắn trong cuộc sống.
1.3. Cơ sở thực tiễn :
	Giáo dục và rèn KNS là một phạm trù rộng, tất cả các bộ môn, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường như: Đoàn thanh niên, Công đoàn, tổ chuyên môn và tất cả giáo viên, học sinh đều phải bắt tay vào thực hiện. Trong đó môn GDCD là môn học có nhiều khả năng để thực hiện nội dung này nhất. Vì hầu hết tất cả các chủ đề và nội dung bài học đều có thể lồng ghép các nội dung giáo dục KNS cho học sinh.
	Trong những năm gần đây, việc giáo dục học sinh trong nhà trường đã không bó hẹp ở việc giảng dạy , cung cấp tri thức văn hóa mà yêu cầu cần phải cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết về kĩ năng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt từ năm học 2011- 2012, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục tích hợp KNS vào các môn học và đã tổ chức tập huấn cho cán bộ giáo viên trực tiếp đứng lớp ở các cấp học và triển khai thực hiện nội dung này một cách có hệ thống và đồng bộ. Và đây cũng là xu thế giáo dục chung của nhiều nước trên thế giới.
	Tuy nhiên khi triển khai và tổ chức thực hiện giáo dục KNS nói chung và đối với môn GDCD nói riêng nhiều lúc giáo viên còn lúng túng khi lựa chọn kĩ năng thích hợp để giáo dục học sinh, việc điều tiết giữa nội dung bài học với các KNS cần giáo dục trong thời gian 45’ của một tiết học gặp nhiều khó khăn cho giáo viên có năng lực chuyên môn còn hạn chế.
	Từ những vấn đề nêu trên bản thân cá nhân tôi đã lựa chọn chuyên đề “Giáo dục KNS cho học sinh THPT qua bài học môn GDCD”
2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu:
2.1. Khái quát phạm vi:
Ở các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Bảo Yên nói chung và xã Bảo Hà nói riêng cuốn theo nền kinh tế thị trường nhiều gia đình bố mẹ mải kiếm tiền quên mất trách nhiệm phải dạy con các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống vì thế các em thiếu các kĩ năng tối thiểu trong cuộc sống. Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại là hết sức cần thiết trong mỗi nhà trường.
2.2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu:
Học sinh trung học là lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách sống nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là hết cần thiết, điều đó sẽ giúp các em được rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Điều đó cũng giúp các em tăng cường khả năng tâm lí, có khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại.
	Chính vì bản thân được phân công trực tiếp giảng dạy môn GDCD rất rễ lồng ghép tích hợp với giáo dục kĩ năng sống cho các em trong việc các kĩ năng ứng phó với cuộc sống đời thường.
2.3. Nguyên nhân của thực trạng:
Nơi trường đóng tuy cách xa trung tâm huyện nhưng địa phương xã Bảo Hà là khu vực tâm linh phát triển vì vậy kinh tế địa phương phát triển, điều đó không ít gia đình bố mẹ mải mê kiếm tiền nuôi gia đình không quan tâm đến việc giáo dục các con, bên cạnh đó tình trạng bùng nổ công nghệ thông tin cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục. Lứa tuổi học sinh trung học là lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách sống nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là hết cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các. 
3. Quá trình và giải pháp thực hiện:
3.1. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
	Để thực hiện giáo dục KNS cho học sinh cấp THPT thông qua bài học GDCD thì việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh là hết sức cần thiết, là khâu quan trọng quyết định sự thành công việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
a. Đối với giáo viên:
Nghiên cứu kĩ tài liệu SGK, SGV và chuẩn KTKN để xác định đúng yêu cầu, mục tiêu bài học;
Tìm hiểu rõ nội dung và địa chỉ giáo dục KNS trong từng bài học, từng phần, từng nội dung để xác định các KNS cơ bản cần được giáo dục học sinh.
	Hướng dẫn cụ thể, giao nhiệm vụ tới tận tay học sinh về yêu cầu của nội dung tích hợp giáo dục cho từng phần, từng bài học.
	Chuẩn bị kĩ các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc dạy và học của từng phần, từng bài. Cụ thể như:
Tài liệu SGK, SGV, chuẩn KTKN.
Máy tính, máy chiếu, bút dạ, giấy khổ lớn, phiếu học tập.
Các phim liệu, thông tin thống kê, tranh ảnh.
b. Đối với học sinh:
Học sinh phải biết và phải tìm hiểu thông tin liên quan đến nội dung bài học như: sưu tầm tư liệu, tranh ảnh (nếu có), tìm hiểu trước nội dung bài học để tạo sự chủ động trong việc tìm kiếm, xử lí và tiếp nhận thông tin, kiến thức cho các em trong mỗi bài học.
	Học sinh chủ động tâm lí sẵn sàng, tự tin khi tham gia hoạt động tìm hiểu kiến thức rèn kĩ năng, giải quyết tình huống hay tham gia vào các trò chơi qua đó các em có cơ hội tự rèn cho mình những kĩ năng cần thiết.
3.2. Giải pháp thực hiện:
* Giải pháp 1: 
Nghiên cứu tài liệu chuẩn KTKN, xác định rõ mục tiêu bài học. Sau đó nghiên cứu nội dung bài ở SGK, kết hợp tham khảo hướng dẫn giảng dạy ở SGV... để định hướng kiến thức cần đạt qua một tiết học.
* Giải pháp 2: 
	Nghiên cứu tài liệu Giáo dục KNS trong môn GDCD ở trường THPT để xác định những KNS cơ bản cần được giáo dục. Tham khảo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng tùy theo đối tượng và điều kiện dạy học cho phù hợp.
	Ví dụ: Qua bài học “Các cặp phạm trù cơ bản của đạo đức học” giáo viên đã xác định được các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục và các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng đó là:
Các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục:
	Kĩ năng xác định, phân tích, so sánh biểu hiện của tự trọng, tự ái thiếu tự trọng.	
	Kĩ năng xác định giá trị của sự tự trọng, thể hiện sự tự trọng...
 Kĩ năng tự nhận thức của bản thân về lòng tự tin, tự trọng.
Các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng:
 Thảo luận nhóm.
 Nghiên cứu trường hợp điển hình.
 Xử lí tình huống.
* Giải pháp 3:
Tiến hành soạn bài đáp ứng yêu cầu việc tích hợp giáo dục KNS cho học sinh.
Khám phá: Kích lệ học sinh tự tìm hiểu xem các em đã biết những gì về bài học sắp tới;
	Ở bài học này chúng tôi cho học sinh tiếp xúc với một câu trong nhật ký Đặng Thùy Trâm giúp các em thể hiện được kỹ năng phân tích và trình bày. 
	Kết nối: Giới thiệu thông tin, kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo cầu nối liên kết giữa cái đã biết và cái chưa biết;
	HS được xem một đoạn video quà tặng cuộc sống về “Bài học về tự trọng” qua đó rèn luyện cho học sinh kỹ năng phân tích, quan sát và tư duy phê phán
	HS cùng nhau tiếp sức qua trò chơi để rèn luyện kỹ năng hợp tác
	Thực hành: tạo cơ hội cho học sinh thực hành, vận dụng kiến thức vào giải quyết tình huống qua đó rèn kĩ năng vào cuộc sống thực tiễn.
Vận dụng: Mở rộng và vận dụng kiến thức, kĩ năng có được vào các tình huống, của đời sống xã hội.
	Sau đó, tiến hành thiết kế bài giảng đáp ứng yêu cầu giáo dục KNS.
* Giải pháp 4:
Chuẩn bị đồ dùng dạy học đã được xác định trong phần chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
	Với việc xác định mục tiêu bài học theo chuẩn KTKN, xác định những KNS cần được giáo dục qua bài học, chúng tôi mạnh dạn tiến hành bài dạy theo các phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh phát huy tính tự giác, sáng tạo của học sinh để học sinh rễ tiếp thu bài học, đồng thời giúp các em hình thành và rèn luyện các KNS cần thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
4. Phương pháp chủ yếu để thực hiện đề tài.
4.1 Phương pháp thảo luận nhóm:
Khi dạy các em lựa chọn phương pháp thảo luận nhóm cùng trao đổi, nhận xét, phát hiện, bày tỏ ý kiến của mình về KNS của bản thân, của bạn của mình giáo viên đưa ra ý kiến của mình qua đó đánh giá hành vi đúng, sai của các em điều đó giúp các em mới nhớ rất lâu những nội dung đã từng thảo luận. 
4.2 Phương pháp hồi tưởng: 
Ví dụ khi dạy bài 11 GDCD lớp 10 “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học”: Các hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức. Cho học sinh kể lại những hành vi phạm trong cuộc sống thường ngày. Sau đó học sinh trình bày những quan điểm của mình. Giáo viên có nhiệm vụ liệt kê trên bảng, giáo viên nhắc lại những điều cần thiết trong cuộc sống, nhất là những em còn vi phạm cần rèn ngay. 
4.3 Phương pháp đóng kịch:
Cho các em đóng kịch thể hiện ngay trên sân khấu thông qua các buổi sinh hoạt tập thể. Từ đó các em được nhắc lại những các giá trị sống và các kĩ năng sống cần thiết trong đời sống.
4.4 Phương pháp trắc nghiệm:
Như những các môn học khác trong một giờ học phải tạo cho các em hứng thú học tập, nên các giảng dạy môn GDCD tích hợp việc giáo dục KNS cũng phải phong phú đa dạng, theo hướng từ đơn giản đến phức tạp, các em có kĩ năng cần thiết và phải được hình thành từ thụ động đến chủ động, hướng dẫn các em từ từ không nên ép buộc các em phải nhớ ngay mà các em sẽ có kỹ năng dần trong cá

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_tru.doc
  • docBia.doc
  • docDANH MỤC VIẾT TẮT.doc
  • docDon va tom tat sang kien.doc
  • docĐe nghị công nhận SKKN.doc