Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt Lớp 5

Cơ sở lí luận

 Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến chính sách dân tộc. Trong Hiến pháp, cũng như các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng đều khẳng định chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó, chính sách về giáo dục và đào tạo là một chính sách quan trọng để nâng cao dân trí và đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009), Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đều có các quy định để đảm bảo quyền được giáo dục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Quy định việc tạo điều kiện cho người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình bên cạnh việc sử dụng tiếng Việt. Tạo điều kiện cho học sinh dân tộc thiểu số được hưởng chính sách ưu đãi.

Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ thể hiện qua các Nghị định, chương trình, dự án, mà còn bằng chiến lược cơ bản lâu dài, như chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2013, nhằm tạo động lực phát triển mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Như vậy, vai trò của người giáo viên được đặt lên hàng đầu trong chiến lược giáo dục đồng bào dân tộc thiểu số trong những năm tới. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ của một giáo viên trong điều 34 theo Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30/12/2010 về điều lệ trường Tiểu học thì giáo viên đồng thời phải thực hiện tốt công tác chủ nhiệm theo Thông tư 28/2009/TT-BGDĐT ngày 21/10/2009. Trong khi đó giáo viên còn thực hiện tốt việc đánh giá học sính theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016.

Do đó không thể phủ nhận vai trò của người giáo viên chủ nhiệm. Để thực hiện tốt vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp, trước tiên người giáo viên phải xác định đúng vị trí, nhiệm vụ, biết tổ chức giáo dục, phải là người thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy cô giáo, phải nắm được đường lối quan điểm lí luận giáo dục đồng thời người giáo viên chủ nhiệm phải tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội.

Năm học 2017 – 2018, tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5C với 100% học sinh dân tộc Ê đê, trong đó có một số học sinh quá tuổi hay nghỉ học; tiếp thu bài chậm; chưa tích cực tham gia các hoạt động học tập, giáo dục; gây mất trật tự trong các giờ học. Vấn đề đặt ra cho tôi bây giờ là phải tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp giúp những học sinh này có động cơ học tập, hứng thú trong các hoạt động giáo dục và phấn đấu rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ của người học sinh.

 

doc 17 trang hoathepmc36 28/02/2022 6094
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT LỚP 5
 	I. PHẦN MỞ ĐẦU
 	1. Lí do chọn đề tài
 	Trên khắp đất nước Việt Nam, mỗi dân tộc đều gắn liền với một bản sắc văn hoá và chính bản sắc văn hoá này đã tạo nên một nét riêng biệt của mỗi vùng, miền. Đắk Lắk là một tỉnh miền núi, trong đó đồng bào dân tộc Ê Đê chiếm 30% dân số của tỉnh với nhiều nét đẹp văn hóa vẫn được bảo tồn và phát huy như Văn hóa cồng chiêng, ngày 25 - 11 - 2005 đã được tổ chức UNESCO công nhận  “Không gian Văn hóa cồng chiêng là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại”; Văn hóa lễ hội: Lễ cúng bến nước, lễ cúng vào nhà mới, lễ cúng trưởng thành, lễ cúng sức khỏe, lễ cầu mưa, Đồng bào Êđê rất tự hào về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. 
Bên cạnh những giá trị văn hóa tốt đẹp đó, ở vùng sâu, vùng xa trình độ dân trí còn thấp, kinh tế chậm phát triển các hiện tượng mê tín dị đoan, các tập quán hủ tục vẫn còn tồn tại như tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Tình trang này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ra hậu quả rất lớn đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Tảo hôn thì vợ, chồng chưa phát triển đầy đủ về cả sinh lý và tâm lý, chưa đủ khả năng để chăm sóc con phát triển một cách bình thường, khỏe mạnh, toàn diện, do đó những đứa con đó lớn lên sẽ rất khó khăn về nhiều mặt như sức khỏe, học hành... Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống sẽ sinh ra những đứa con kém phát triển về trí tuệ, khả năng học tập kém, không có khả năng tiếp thu như những đứa trẻ bình thường.
	Dân tộc Ê đê cũng như một số dân tộc ít người khác thường định cư ở miền núi, chịu nhiều bất lợi về kinh tế, xã hội, tỉ lệ hộ nghèo và mù chữ cao. Trường Tiểu học Ea Bông nằm trên địa bàn Buôn Riăng, Buôn Knul và thôn 10/3 thuộc xã Ea Bông, đây là một xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn của huyện Krông Ana. Trong đó có hai buôn là Buôn Riăng và Buôn Knul có dân tộc Ê đê sinh sống. Nhân dân ở đây chủ yếu là làm nông nghiệp và làm thuê. Mức thu nhập bình quân của hộ gia đình thấp. Đời sống kinh tế người dân không đảm bảo nên việc chăm lo học hành cho con cái gặp rất nhiều khó khăn.
	Một số đứa trẻ được sinh ra ở đây cũng có nhiều điểm đặc biệt: Cơ thể phát triển chậm so với lứa tuổi, kéo theo tâm sinh lí của các em cũng chậm phát triển. Các em không được nhanh nhẹn, hoạt bát về ngôn ngữ cũng như các hoạt động. Đối tượng thứ nhất là học sinh thuộc gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn: Những em này hay nghỉ học để phụ giúp bố mẹ, nên việc tiếp thu bài trên lớp bị gián đoạn. Dẫn đến các em tiếp thu bài chậm, kết quả học tập giảm sút. Các em thấy tự ti khi đến lớp, các em không muốn học và thường gây mất trật tự trong các giờ học. Đối tượng thứ hai là học sinh thiếu sự quan tâm, giáo dục của bố mẹ. Bố hoặc mẹ mất hay bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà, không có người đôn đốc việc học hành nên các em thiếu sự định hướng trong học tập và cuộc sống. Trong khi đó, độ tuổi của các em đang bước vào giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, có nhiều sự biến đổi về tâm sinh lí. Các em cần có người bố hoặc mẹ hướng dẫn, giúp đỡ để các em có những bước phát triển đúng đắn nhất về mặt xã hội, tinh thần cũng như thể chất.
	Vốn kĩ năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế, các em chưa có động lực học tập tích cực. Xuất phát từ thực tế đó, tôi luôn trăn trở làm sao để dạy dỗ và giáo dục các em để trở thành người hữu ích cho gia đình, xã hội. Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải làm tốt công tác chủ nhiệm, xứng đáng với hình ảnh đẹp mà xã hội cũng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý vì nó tạo ra những con người sáng tạo”. Đó chính là lí do tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt lớp 5.”
 	2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
 	Mục tiêu của đề tài là tìm ra biện pháp, giải pháp nâng cao công tác chủ nhiệm đối với học sinh dân tộc thiểu số cá biệt; xây dựng tốt mối quan hệ giáo dục giữa nhà trường, giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, các đoàn thể, địa phương. Với mong muốn nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho các em. Giáo viên tự rèn luyện tinh thần năng động, say mê, sáng tạo, cố gắng học tập và có thể lựa chọn phương pháp chủ nhiệm lớp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, tự hoàn thiện bản thân mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại. 
 	Nhiệm vụ của đề tài là đề xuất một số kinh nghiệm giáo dục học sinh lớp 5 cá biệt hổ trợ cho công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh lớp 5 dân tộc thiểu số.
 	3. Đối tượng nghiên cứu
 	Các biện pháp giúp nâng cao công tác chủ nhiệm trong giáo dục học sinh cá biệt lớp 5.
4. Giới hạn của đề tài
 	Giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh lớp 5C, các đoàn thể trong trường Tiểu học Ea Bông, ở địa phương.
	 Đề tài có thể áp dụng cho học sinh lơp 5 có học sinh cá biệt trong trường và trên những địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.
 	5. Phương pháp nghiên cứu 
 	a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu, sản phẩm.
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục, các công văn chỉ thị của Bộ Giáo dục của Sở Giáo dục và của Phòng Giáo dục. 
- Chính sách phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
 	b) Phương pháp trải nghiệm thực tế.
 	- Đi tìm hiểu thực tế các hoàn cảnh gia đình học sinh trên địa bàn.
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, lãnh đạo về các kĩ năng sư phạm, các phương pháp giáo dục đối với học sinh lớp 5.
 	- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học, chủ nhiệm lớp.
 	c) Phương pháp điều tra, thống kê, so sánh.
 	d) Phương pháp quan sát hoạt động thực tiễn. 
II. PHẦN NỘI DUNG
 	1. Cơ sở lí luận
 	Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến chính sách dân tộc. Trong Hiến pháp, cũng như các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng đều khẳng định chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó, chính sách về giáo dục và đào tạo là một chính sách quan trọng để nâng cao dân trí và đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009), Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đều có các quy định để đảm bảo quyền được giáo dục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Quy định việc tạo điều kiện cho người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình bên cạnh việc sử dụng tiếng Việt. Tạo điều kiện cho học sinh dân tộc thiểu số được hưởng chính sách ưu đãi. 
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ thể hiện qua các Nghị định, chương trình, dự án, mà còn bằng chiến lược cơ bản lâu dài, như chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2013, nhằm tạo động lực phát triển mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Như vậy, vai trò của người giáo viên được đặt lên hàng đầu trong chiến lược giáo dục đồng bào dân tộc thiểu số trong những năm tới. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ của một giáo viên trong điều 34 theo Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30/12/2010 về điều lệ trường Tiểu học thì giáo viên đồng thời phải thực hiện tốt công tác chủ nhiệm theo Thông tư 28/2009/TT-BGDĐT ngày 21/10/2009. Trong khi đó giáo viên còn thực hiện tốt việc đánh giá học sính theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016.
Do đó không thể phủ nhận vai trò của người giáo viên chủ nhiệm. Để thực hiện tốt vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp, trước tiên người giáo viên phải xác định đúng vị trí, nhiệm vụ, biết tổ chức giáo dục, phải là người thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy cô giáo, phải nắm được đường lối quan điểm lí luận giáo dục đồng thời người giáo viên chủ nhiệm phải tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội. 
Năm học 2017 – 2018, tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5C với 100% học sinh dân tộc Ê đê, trong đó có một số học sinh quá tuổi hay nghỉ học; tiếp thu bài chậm; chưa tích cực tham gia các hoạt động học tập, giáo dục; gây mất trật tự trong các giờ học. Vấn đề đặt ra cho tôi bây giờ là phải tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp giúp những học sinh này có động cơ học tập, hứng thú trong các hoạt động giáo dục và phấn đấu rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ của người học sinh. 
2. Thực trạng 
Mặc dù Đảng, Nhà nước đã quan tâm ban hành nhiều chính sách đối với giáo dục, đào tạo vùng dân tộc thiểu số, tuy nhiên đến nay vẫn chưa thể giải quyết được hết những khó khăn của địa phương. Mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vùng dân tộc thiểu số đã được tăng cường đầu tư, cải thiện rất nhiều so với trước. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt là ở các trường chuyên biệt vùng dân tộc thiểu số vẫn còn thiếu nhiều phòng học, năng lực một bộ phận giáo viên còn hạn chế, đời sống còn khó khăn nên chưa yên tâm công tác.
Đội ngũ giáo viên trong trường chưa đồng đều, kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm còn lúng túng, chưa phát huy hết kĩ năng sư phạm, tổ chức hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực của các em trong học tập chưa linh hoạt. Nên các em chưa ham thích học tập, còn ngại đến trường. Mặc dù giáo viên các lớp trước đã dùng nhiều biện pháp để động viên, khích lệ học sinh đi học chuyên cần; tổ chức một số hình thức dạy học tạo hứng thú trong học tập cho các em nhưng tình trạng học sinh không thích đi học, còn hay nghỉ học, nghịch phá trong một số tiết học vẫn tiếp tục diễn ra. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục đối với các em.
Tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5C; lớp có tổng số học sinh là 24 em, trong đó nữ: 14 em, dân tộc: 24 em; Con hộ nghèo: 14 em; cận nghèo: 02 em; Khuyết tật: 03 em. Một số em chưa có ý thức tự học tập, tự rèn luyện tu dưỡng đạo đức; vốn kỹ năng sống còn hạn chế. Do thói quen nói tiếng mẹ đẻ, thiếu vốn từ vựng tiếng Việt nên khi diễn đạt bằng lời nói, câu văn còn chưa đúng ý, đúng câu. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ các em phải đi làm để phát triển kinh tế gia đình nên các em thiếu sự quan tâm của cha mẹ trong việc giáo dục đạo đức, hành vi, lối sống. Một số học sinh chưa theo kịp yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng; chưa có động cơ học tập và do cha mẹ học sinh nhận thức hạn chế nên không nhắc nhở giúp đỡ các em học tập. Bên cạnh đó một số em thường nghỉ học vào dịp mùa màng theo cha mẹ đi nương rẫy hoặc ở nhà trông em để cha mẹ đi làm nên việc tiếp thu bài trên lớp gặp rất nhiều khó khăn. 
Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh, tôi phân loại học sinh thành 3 nhóm: nhóm 1 là nhóm học sinh có ý thức học tập và rèn luyện tốt, gia đình quan tâm đến việc học của các em; nhóm 2 là nhóm học sinh hay nghỉ học, thường làm mất trật tự trong các giờ học, không có động lực học tập; nhóm 3 là nhóm các em thiếu sự quan tâm của bố mẹ vì lí do đặc biêt. Nhóm 2 và nhóm 3 có chung đặc điểm là học lực yếu, tiếp thu bài chậm, đọc viết yếu và không tập trung trong giờ học, các em chưa tích cực tham gia các hoạt động học tập và rèn luyện. Đây là 2 nhóm thuộc phạm vi đề tài nghiên cứu để tìm ra các giải pháp giúp đỡ các em hoàn thành nhiệm vụ học tập và có kĩ năng sống tạo nền tảng cơ sở cho cấp học trên.
Từ tình hình trên, tôi hiểu và ý thức được nhiệm vụ của một giáo viên chủ nhiệm lớp, phải tìm ra giải pháp tốt, phù hợp để các em ham thích đến lớp, có động cơ học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục và rèn luyện, có vốn kĩ năng sống nhằm định hướng phát triển đúng đắn về mặt xã hội và tinh thần.
 	Nguyên nhân là do trong quá trình giảng dạy và chủ nhiệm lớp, một số giáo viên chưa quan tâm đến điều kiện gia đình của từng em và phân loại các đối tượng học sinh trong lớp, còn lúng túng trong việc lập kế hoạch chủ nhiệm. Thiếu mạnh dạn đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để phát huy tính tích cực chủ động của các em. Việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp như văn nghệ, hoạt động Đội không thường xuyên nên chưa phát huy tính hiệu quả của nó trong việc nâng cao chất lượng học tập, giáo dục. Một số học sinh chưa biết xác định động cơ học tập đúng đắn nên chưa chăm chỉ học tập và rèn luyện. Điều kiện học tập như: dụng cụ học tập, góc học tập ở nhà còn thiếu thốn. Một số cha mẹ chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em, còn khoán trắng cho nhà trường, chưa tạo điều kiện cho các em học tập. 
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
 	a) Mục tiêu của giải pháp
 	Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số lớp 5 cá biệt, giúp các em có động cơ học tập, có phẩm chất đạo đức tốt, có kĩ năng sống vận dụng trong sinh hoạt hằng ngày, giúp các em trở thành con người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ. 	
b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
 	Bằng kinh nghiệm thực tế trong công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi đưa ra một số biện pháp như sau: 
 	* Biện pháp 1 : Tìm hiểu thông tin về học sinh. 
Việc nắm bắt thông tin về học sinh là rất cần thiết đối với giáo viên chủ nhiệm. Đầu tiên tôi đã tìm hiểu tình hình học sinh của lớp về mọi mặt như hoàn cảnh gia đình học sinh: tôi đã trực tiếp đến từng gia đình cha mẹ học sinh lớp mình để biết được điều kiện sống của các em. Mục đích đi thăm gia đình cha mẹ là qua đàm thoại với cha mẹ để biết một số thông tin về từng học sinh (Sức khỏe, sở thích, tính cách, điều kiện học tập ở nhà,) và để biết được cha mẹ quan tâm đến con về việc đi học như thế nào? Và xem tư tưởng của cha mẹ các em về giáo dục ra sao? Quan tâm đến việc học tập của con cái mình như thế nào? Tôi đã tìm hiểu để biết được điều kiện sống và những lưu ý đặc biệt về đặc điểm của học sinh cá biệt, từ có biện pháp giáo dục hữu hiệu nhất. Quan sát xem trong nhà đã có dành riêng góc học tập cho các em không? Nếu có thì đã làm như thế nào? 
Ví dụ: Em Y Toan Adrơng, gia đình có 6 anh em, Y Toan là con thứ nhất. Từ nhỏ em hay ốm đâu, từng bị u lành ở bộ phận sinh dục nhưng được gia đình chạy chữa và đã khỏi hẳn. Em kế tiếp của Y Toan sinh ra bị dị tật bẩm sinh, hay ốm đâu và chết khi mới hơn 1 tuổi. Y Toan và các em sức khỏe không tốt nên hay nghỉ học. Gia đình em rất khó khăn, không có ruộng rẫy, sống chủ yếu bằng việc làm thuê nhưng cũng không ổn định. Vì bố mẹ sinh con gần nhau, em nhỏ dại nên Y Toan còn phải trông em để bố mẹ đi làm.
Em H Ninh Niê và H Bơ Hđơk đều sinh năm 2005 (quá 2 tuổi). Em H Ninh có hoàn cảnh rất đặc biệt, gia đình có 3 anh em, mẹ mất sớm do bệnh hiểm nghèo khi em chưa tròn 3 tháng tuổi. Bố là người dân tộc H Rê ở Phú Yên, sau khi mẹ mất, bố trở về quê và tái hôn. Cả 3 anh em được bác ruột nuôi dưỡng và chăm sóc. Còn hoàn cảnh em H Bơ cũng tương tự, bố em mất sớm vì bệnh tật khi em đang học lớp 1, để lại 2 chị em; mẹ phải vất vả đi làm thuê xa theo mùa vụ có khi đến vài tháng mới về nhà một lần. Hai chị em phải sống với bà ngoại đã già yếu. Các em đều thiếu tình cảm của cha mẹ, sự đôn đốc trong học tập, không được chỉ bảo về các kĩ năng sống trong khi các em đang bước vào tuổi dậy thì, các em rất cần sự hướng dẫn và giúp đỡ.
Như vậy, việc đầu tiên là phải xây dựng một kế hoạch chủ nhiệm. Kế hoạch này ngoài việc căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, chuyên môn, phải dựa vào tình hình thực tế của lớp, của cá nhân học sinh để xây dựng kế hoạch cả năm, học kỳ, tháng, tuần. Dựa vào kế hoạch, tôi hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ đã đề ra. Sau mỗi đợt, tôi tổng kết lại cả quá trình và rút ra cho mình bài học kinh nghiệm. Từ đó biết được ưu, khuyết điểm của từng em để khắc phục và đưa ra hướng hoạt động mới. Những vấn đề trong hướng dẫn các em hoạt động, tôi ghi vào sổ chủ nhiệm những gì mình theo dõi được ở học sinh. Từ đó đánh giá và giáo dục các em tốt hơn.
* Biện pháp 2 : Xây dựng mối quan hệ thầy – trò.
“Xây dựng lớp học thân thiện” là tạo ra sự gần gũi giữa giáo viên với học sinh. Vì vậy làm thế nào để mối quan hệ thầy - trò được gắn bó, thân thiện. Trước hết, tôi đã thể hiện sự thân thiện cởi mở với các em nhưng vẫn thể hiện sự nghiêm khắc. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu các em phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Mối quan hệ cơ bản nhất của tôi và các em là quan hệ hợp tác làm việc: giáo viên giao việc - học trò làm; giáo viên hướng dẫn - học trò thực hiện. Khi các em làm bài, viết bài tôi đến gần từng em để giúp đỡ kịp thời. Em nào làm bài chưa đúng, chưa viết được, tôi yêu cầu em đó phải làm lại chứ không ghi lời nhận xét phê bình các em. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học sinh làm lại ngay tại lớp. Nếu em nào không làm được, tôi chữa bài và yêu cầu em chép lại. Tôi luôn nghĩ rằng đối với học sinh tiểu học việc chữa bài đánh giá nhận xét không phải để bắt lỗi, để la mắng học sinh mà để ghi lời nhận xét đánh giá nhằm phát hiện những chỗ chưa đúng của học sinh, giúp các em làm lại cho đúng, cho hoàn thiện hơn. Với cách nói đúng, làm đúng trong học tập, các em trở thành những con người trung thực, không gian dối. 
Ở lớp 5, các em đã biết nhận xét, đánh giá nêu ra ý kiến riêng của mình. Bởi vậy mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm, hành vi của giáo viên đều tác động đến học sinh vì đây là giai đoạn bước đầu các em phát triển tâm sinh lí tuổi dậy thì, các em rất nhạy cảm. Khi lên lớp tôi luôn nhắc các em biết giữ vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân, thái độ ứng xử với mọi người,... Mỗi khi có học sinh mắc khuyết điểm, tôi luôn tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa chứ không nóng vội phê bình các em trước lớp hoặc trước tập thể cha mẹ học sinh và không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em vì ở tuổi này các em đã biết tự ái và xấu hổ.
 	Giờ học nào cũng vậy, tôi luôn cố tìm ra những ưu điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em, khích lệ và biểu dương các em kịp thời. Chỉ bằng những tràng pháo tay cũng đủ để các em vui phấn khởi chứ không nhất thiết phải là vật chất. Ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn để các em thấy tự tin, phấn khởi, hứng thú để lần sau các em tiếp tục phát huy. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. 
 	Ví dụ em H Ninh là học sinh khả năng ghi nhớ chậm, rụt rè, đọc yếu. Nên trong mỗi giờ học, tôi dành thời gian gọi em phát biểu dù chỉ là một câu trả lời nhỏ, đọc một câu văn ngắn tôi vẫn khen em đã có cố gắng, nếu em cố gắng hơn thì em sẽ đọc bài tốt hơn. Cứ thế mỗi giờ học, mỗi buổi học mỗi lần được khen em đều nở nụ cười phấn khởi. Từ đó em học tập tiến bộ và mạnh dạn hẳn lên cho đến cuối học kì I em đã đọc có tiến bộ rất nhiều, khả năng đọc bài và tính toán cũng nhanh hơn. 
 	Đối với học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn: Tôi luôn quan tâm gần gũi động viên để các em cố gắng học tập tốt như phát động phong trào “Giúp bạn nghèo vượt khó”, “Lá lành đùm lá rách”, gặp riêng cha mẹ học sinh để bàn bạc và khuyên họ khắc phục khó khăn tạo điều kiện cho con em học tập. Việc làm này, tôi thực hiện thường xuyên, liên tục hàng tuần. Sự gần gũi, thân thiện giữa cô và trò như vậy làm cho cha mẹ các em yên tâm, sẽ có trách nhiệm động viên, nhắc nhở con em ra lớp. Với các em trong trường hợp này thường hay thiếu dụng cụ học tập, tôi đã phát động cả lớp mỗi ngày tiết kiệm 1000 đồng nuôi heo đất lấy tiền mua dụng cụ học tập. Tuy những đồ dùng này giá không là bao nhưng vẫn là nguồn động viên, an ủi cho các em đến trường. 
Ví dụ em H Bơ Hđơk, khi tôi đến gia đình động viên em thì biết được lí do em không đi học là không có quần áo, cặp và sách vở - đồ dùng học tập để đến lớp. Tôi đã khuyến khích học sinh trong lớp quyên góp mỗi bạn 1 quyển vở hay cái bút, thước kẻ. Tôi cũng để lại cho em chiếc ba lô mà tôi yêu thích để cho em có cặp đi học. Hôm sau em đã đến lớp rất tươm tất trong tiếng vỗ tay của cả lớp. Đối với các em đó là một sự khích lệ vô cùng lớn để các em vững bước trên con đường học tập.
 	Mỗi khi trò chuyện, khi giảng bài, hay trong giờ ra chơi, tôi luôn quan tâm và thể hiện tình cảm yêu thương của mình đối với các em. Chỉ có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học. Tình cảm giữa tôi và các em ngày cà

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet_lop_5.doc