Phân loại và phương pháp giải một số dạng bài tập nhằm nâng cao chất lượng môn Hóa học 9 ở trường THCS Trần Mai Ninh thành phố Thanh Hóa

Phân loại và phương pháp giải một số dạng bài tập nhằm nâng cao chất lượng môn Hóa học 9 ở trường THCS Trần Mai Ninh thành phố Thanh Hóa

Bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, lý luận dạy học hiện đại khẳng định: Cần phải đưa học sinh vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức, học trong hoạt động. Học sinh bằng họat động tự lực, tích cực của mình mà chiếm lĩnh kiến thức. Quá trình này được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ góp phần hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo.

Hoá học là bộ môn khoa học quan trọng trong nhà trường phổ thông. Môn hoá học cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hoá học, giáo viên bộ môn hoá học cần hình thành ở các em một kỹ năng cơ bản, thói quen học tập và làm việc khoa học làm nền tảng cho việc giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động. Có những phẩm chất thiết như cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ, chính xác, yêu chân lí khoa học, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội có thể hoà hợp với môi tr­êng thiªn nhiªn.Việc nắm vững các kiến thức cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt đông sản xuất và các hoạt động sau này.

Trong môn hoá học thì bài tập hoá học có một vai trò cực kỳ quan trọng nó là nguồn cung cấp kiến thức mới, vận dụng kiến thức lí thuyết, giải thích các hiện tượng các quá trình hoá học, giúp tính toán các đại lượng: Khối lượng, thể tích, số mol. giúp giáo viên kiểm tra đánh giá ®­îc kết quả học tập của học sinh, Từ đó phân loại học sinh để có kế hoạch sát với đối tượng. Việc giải bài tập sẽ giúp học sinh được củng cố kiến thức lí thuyết đã được học, vận dụng linh hoạt kiến thức vào làm bài. Để giải được bài tập đòi hỏi học sinh không chỉ nắm vững các tính chất hoá học của các đơn chất và hợp chất đã học, nắm vững các công thức tính toán, biết cách tính theo phương trình hóa học và công thức hoá học. Đối với những bài tập đơn giản thì học sinh thường đi theo mô hình đơn giản: Như viết phương trình hoá học, dựa vào các đại lượng bài ra để tính số mol của một chất sau đó theo phương trình hoá học để tính số mol của các chất còn lại từ đó tính được các đại lượng theo yêu cầu của bài. Nhưng đối với nhiều dạng bài tập thì nếu học sinh không nắm được bản chất của các phản ứng, không phân dạng được bài tập, không nắm được phương pháp giải thì việc giải bài hóa học của học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thường là giải sai.

 

doc 21 trang thuychi01 9731
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phân loại và phương pháp giải một số dạng bài tập nhằm nâng cao chất lượng môn Hóa học 9 ở trường THCS Trần Mai Ninh thành phố Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHÂN LOẠI VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢI MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN HÓA HỌC 9 Ở TRƯỜNG THCS TRẦN MAI NINH THÀNH PHỐ THANH HÓA
Người thực hiện: Nguyễn Văn Thịnh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Trần Mai Ninh
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Hóa học
THANH HÓA NĂM 2018
MỤC LỤC
PHỤ LỤC 	1
PHẦN I. MỞ ĐẦU ..................................................................................... 2
1.1. Lí do chọn đề tài 	2
1.2.Mục đích chọn đề tài.	3
1.3.Đối tượng nghiên cứu.	3
1.4.Phương pháp nghiên cứu.	3
1.5.Những điểm mới của skkn	3
PHẦN II. NỘI DUNG 	4
2.1.Cơ sở lí luận	4
2.2.Thực trạng	5
2.3.Giải pháp	6
2.4.Kết quả đạt được	16
PHẦN III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ	17
3.1. KẾT LUẬN 	18
3.2. KIẾN NGHỊ	18
TÀI LIỆU THAM KHẢO	19
DANH MỤC	20
 PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, lý luận dạy học hiện đại khẳng định: Cần phải đưa học sinh vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức, học trong hoạt động. Học sinh bằng họat động tự lực, tích cực của mình mà chiếm lĩnh kiến thức. Quá trình này được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ góp phần hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo.
Hoá học là bộ môn khoa học quan trọng trong nhà trường phổ thông. Môn hoá học cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hoá học, giáo viên bộ môn hoá học cần hình thành ở các em một kỹ năng cơ bản, thói quen học tập và làm việc khoa học làm nền tảng cho việc giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động. Có những phẩm chất thiết như cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ, chính xác, yêu chân lí khoa học, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội có thể hoà hợp với môi tr­êng thiªn nhiªn.Việc nắm vững các kiến thức cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt đông sản xuất và các hoạt động sau này.
Trong môn hoá học thì bài tập hoá học có một vai trò cực kỳ quan trọng nó là nguồn cung cấp kiến thức mới, vận dụng kiến thức lí thuyết, giải thích các hiện tượng các quá trình hoá học, giúp tính toán các đại lượng: Khối lượng, thể tích, số mol... giúp giáo viên kiểm tra đánh giá ®­îc kết quả học tập của học sinh, Từ đó phân loại học sinh để có kế hoạch sát với đối tượng. Việc giải bài tập sẽ giúp học sinh được củng cố kiến thức lí thuyết đã được học, vận dụng linh hoạt kiến thức vào làm bài. Để giải được bài tập đòi hỏi học sinh không chỉ nắm vững các tính chất hoá học của các đơn chất và hợp chất đã học, nắm vững các công thức tính toán, biết cách tính theo phương trình hóa học và công thức hoá học. Đối với những bài tập đơn giản thì học sinh thường đi theo mô hình đơn giản: Như viết phương trình hoá học, dựa vào các đại lượng bài ra để tính số mol của một chất sau đó theo phương trình hoá học để tính số mol của các chất còn lại từ đó tính được các đại lượng theo yêu cầu của bài. Nhưng đối với nhiều dạng bài tập thì nếu học sinh không nắm được bản chất của các phản ứng, không phân dạng được bài tập, không nắm được phương pháp giải thì việc giải bài hóa học của học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thường là giải sai.
Qua nghiên cứu bài tập Hoá học và trực tiếp giảng dạy bản thân tôi thấy hầu hết học sinh chưa biết phân dạng và chưa có phương pháp giải bài tập hóa học nên mỗi khi giáo viên đưa ra một dạng bài tập nào đó học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định hướng giải. Bên cạnh đó việc không biết giải các bài tập hóa học hoặc thường xuyên giải sai đã làm cho các em cảm thấy môn hóa là môn học khó, trở nên chán nản, không yêu thích môn học ảnh hưởng 
không nhỏ đến kết quả Dạy - Học.
Mặt khác ở trường THCS Trần Mai Ninh bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cần thiết với mỗi giáo viên. 
 	Từ những vấn đề trên, với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm tòi phương pháp dạy học thích hợp, làm giảm đi những khó khăn của học sinh trong quá trình học tập môn hóa, gây hứng thú học tập và lòng yêu thích bộ môn, nhằm phát triển tư duy lôgic giúp các em tích cực, tự lực, chủ động tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, tạo tiền đề quan trọng cho việc phát triển tư duy của các em ở các cấp học cao hơn góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo. Nên tôi đã chọn đề tài: " Phân dạng và phương pháp giải một số dạng bài tập nhằm nâng cao chất lượng môn hóa học 9 ở trường trung học cơ sở Trần Mai Ninh thành phố Thanh hóa ".
1.2 Mục đích chọn đề tài :
Phân dạng được một số dạng bài tập hóa học và tìm ra được phương pháp giải các dạng bài tập đó một cách dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng học sinh, giúp các em giải tốt các dạng bài tập, từ đó có hứng thú với môn hóa học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.
Quá trình tìm hiểu, nghiên cứu sẽ giúp giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân đồng thời tích luỹ thêm kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy. Đề tài này góp phần nho nhỏ vào việc cung cấp tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lí chỉ đạo chuyên môn Hóa học trong việc kiểm tra đánh giá chất lượng dạy học ở trường THCS, đánh giá qua các kì thi học sinh giỏi cấp trường,cấp thành phố, đặc biệt là cấp tỉnh. Với mục đích đã nêu trên tôi hy vọng nội dung này là tài liệu bổ ích, thiết thực góp phần nâng cao chất lượng ,phương pháp dạy và học môn Hóa học. 
1.3 Đối tượng nghiên cứu 
Đề tài này nghiên cứu và tổng kết một số dạng dạng bài tập dùng cho giảng dạy học sinh đại trà và đặc biệt sử dụng trong bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp thành phố, cấp tỉnh bản thân tôi đã sử dụng trong các năm qua..
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp thu thập thông tin, phương pháp thống kê, phương pháp xử lí số liệu...
1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
 Sáng kiến kinh nghiệm này được phát triển trên cơ sở của sáng kiến kinh nghiệm ở năm trước nhưng lần này có bổ sung và có đưa vào một số dạng bài tập mới thường có trong các đề thi học sinh giỏi của một số đơn vị gần đây và đặc biệt là trong mỗi dạng bài đều có những nhận xét, kết luận, tìm ra những bẫy mà học sinh thường hay mắc sai lầm trong khi làm bài tập. 
 PHẦN II : NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận.
Trong giáo dục đại cương, bài tập được xếp trong hệ thống phương pháp dạy học, thí dụ phương pháp luyện tập. Phương pháp này được coi là một trong những phương pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đây cũng là một phương pháp học tập tích cực đối với học sinh. Ở nhà trường THCS, giáo viên hóa học cần nắm vững các khả năng vận dụng bài tập hóa học, nhưng quan trọng hơn là cần lưu ý tới việc sử dụng bài tập hóa học sao cho phù hợp, đúng mức nhằm nâng co khả năng học tập của học sinh nhưng không làm quá tải hoặc nặng nề khối lượng kiến thức của học sinh. Muốn làm được điều này, trước hết người giáo viên hóa học phải nắm vững các tác dụng của bài tập hóa học, phân loại chúng và tìm ra phương hướng chung để giải.
Bài toán hoá học được xếp trong giảng dạy là một trong hệ thống các phương pháp quan trọng nhất, để nâng cao chất lượng giảng dạy và nó có những tác dụng rất lớn.
Làm cho học sinh hiểu sâu các khái niệm đã học: Học sinh có thể học thuộc lòng các định nghĩa, khái niệm nhưng nếu không thông qua việc giải bài tập, học sinh chưa thể nào nắm vững được cái mà học sinh đã thuộc.	
Mở rộng sự hiểu biết một cách sinh động, phong phú và không làm nặng nề khối lượng kiến thức của học sinh.
Củng cố kiến thức cũ một cách thường xuyên và hệ thống hoá các kiến thức hoá học.
Thúc đẩy thường xuyên sự rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, cần thiết về hoá học. Việc giải quyết các bài tập hoá học giúp học sinh tự rèn luyện các kỹ năng viết phương trình hoá học, nhớ các ký hiệu hoá học nhớ các hoá trị của các nguyên tố, kỹ năng tính toán v.v...
Tạo điều kiện để tư duy phát triển, khi giải một bài toán hoá học bắt buộc phải suy lý, quy nạp, diễn dịch, loại suy.
	Giáo dục tư tưởng cho học sinh vì giải bài tập hoá học là rèn luyện cho học sinh tính kiên nhẫn, trung thực trong lao động học tập, tính sáng tạo khi sử lý các vấn đề đặt ra. Mặt khác rèn luyện cho học sinh tính chính xác của khoa học và nâng cao lòng yêu thích môn học
Phân dạng bài tập hóa học thực chất chính là việc lựa chọn, phân loại các bài tập có những đặc điểm tương tự nhau, cách giải giống nhau để xếp vào cùng một nhóm.
Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới mục đích nhất định, để giải quyết những nhiệm vụ nhất định do đó phương pháp giải bài tập hóa học cũng chính là cách thức, là con đường, phương tiện để giải các bài tạp hóa học.
 Học sinh phân dạng được các dạng bài tập hóa học và có phương pháp giải các dạng bài tập đó thì việc làm bài tập hóa học không còn là vấn đề khó khăn đối với các em nữa, các em sẽ tránh được những sai lầm trong khi giải bài, khi gặp bất kể một bài toán hóa học nào các em cũng có thể làm được một cách dễ dàng, không ngần ngại, giáo viên cũng có nhiều thời gian hơn để đào sâu, mở rộng, nâng cao kiến thức, đưa ra được nhiều cách giải hay, cách giải nhanh giúp các em học tập tốt bộ môn từ đó yêu thích và hứng thú với môn hóa học hơn, chất lượng dạy - học sẽ được nâng lên.
2.2 Thực trạng
Qua các giờ giảng dạy trên lớp, bồi dưỡng học sinh khá, giỏi. Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh phân dạng bài tập hóa học trong chương trình hóa học lớp 9 đồng thời hướng dẫn các em xây dựng phương pháp giải cho các dạng bài tập đó nhằm phát triển kỹ năng làm bài tập hóa học, giúp các em chủ động giải quyết các bài tập hóa học một cách dễ dàng.
Khi được phân công giảng dạy môn hóa học của 2 lớp 9B, 9F tôi dạy với tổng số học sinh là 100 em đã tiến hành khảo sát chất lượng bộ môn và thu được kết quả như sau:
 Mức độ 
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Học sinh
16
16
60
60
24
24
0
0
0
0
Từ kết quả của bảng trên cho thấy số lượng học sinh trung bình bộ môn hóa học ở 2 lớp 9B, 9F còn rất cao chiếm tới 24%. Qua điều tra và thực tế giảng dạy cho thấy số học sinh này hầu như chưa có kỹ năng làm bài tập, chưa có hứng thú trong học tập bộ môn, các em luôn cảm thấy sợ khi giáo viên giao bài tập cho làm tại lớp hoặc bài tập về nhà.
* Để nắm được học sinh có hứng thú với môn hóa hay không tôi đã tiến hành làm phiếu thăm dò 100 em học sinh của 2 lớp 9B,9F của trường Trần Mai Ninh
Câu hỏi:
1. Em có thích học môn Hoá không?
 a, Có b, Bình thường c, Không thích
Trả lời: a = 45 em ( 45%)
 	 b = 40 em ( 40%)
 c = 5em ( 5%)
2. Em có giải tốt các bài tập lập hoá học không?
a, Tốt b, Bình thường c, Không tốt
Trả lời: a = 45em(45%)
 b = 35em( 35%)
 c = 20 em( 20%)
	3. Em có phân dạng và xác định được phương pháp giải bài tập hóa học không?
a, Có b, Không 
Trả lời: a =20 em (20%)
 b = 80 em ( 80%)
3. Em có muốn giáo viên đưa thêm một số phương pháp giải bài tập hoá học không ? 
 a, Có b, Bình thường c, Không muốn
Trả lời: a =65 em(100%); b = 35 em(0%); c = 0 em(0%)
* Nhận xét: Qua kết quả điều tra cho thấy phần lớn các em học sinh thích học môn hoá nhưng khi hỏi các em có biết phân dạng và xác định được hướng giải các bài tập hóa học không thì hầu hết các em trả lời là không và tất cả các em học sinh đều muốn giáo viên giúp các em phân dạng và xác định phương pháp giải. Như vậy có nghĩa là trong quá trình dạy học người giáo viên ngoài việc truyền thụ đủ kiến thức theo yêu cầu của chương trình còn cần sáng tạo hơn trong việc truyền tải kiến thức đến học sinh, cần có những phương pháp tích cực trong quá trình giảng dạy để đến được đích cuối cùng là học sinh hiểu bài, làm được các bài tập có liên quan và vận dụng tốt trong học tập, lao động và trong cuộc sống.. 
Nguyên nhân học sinh không phân dạng được bài tập và không xác định được hướng giải các bài tập
- Khả năng nhận thức, phân tích tổng hợp của học sinh còn hạn chế.
	- Nhiều học sinh chưa chủ động trong học tập, còn lười làm bài tập ở nhà
	- Sách giáo khoa đã đưa dược ra các dạng bài tập hóa học áp dụng với tính chất là để củng cố lại phần kiến thức đã học trong bài như củng cố tính chất hóa học của oxit, axit, bazơ, muối mà các dạng bài tập lại không nằm gọn trong một phần kiến thức nào cả, có thể trong một phần kiến thức rất nhỏ cũng có rất nhiều dạng bài tập để học sinh luyện tập, điều đó đòi hỏi học sinh phải tích cực, tự giác trong việc tự học ở nhà, làm đi làm lại nhiều lần để có kỹ năng từ đó mới phân dạng được bài tập và rút ra được phương pháp giải các dạng bài tập đó.
	- Thời gian trên lớp chỉ đủ cho giáo viên truyền thụ hết lượng kiến thức mới mà chương trình yêu cầu hoặc chỉ giải được rất ít bài tập nên khó khăn cho việc phân dạng và đưa ra phương pháp giải cho học sinh.
	Để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm, tham khảo tài liệu, học hỏi đồng nghiệp, phân dạng được một số dạng bài tập hóa học đơn giản và xác định được phượng pháp giải các dạng bài tập đó.
2.3 Giải pháp
a. Đề xuất biện pháp giúp học sinh học tốt bộ môn hóa học
Trước những thực trạng và nguyên nhân trên tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp giúp học sinh học tốt bộ môn hóa học nhằm nâng cao chất lượng dạy học đó là:. 
Biết phân dạng các dạng bài tập hóa học. 
Xác định được phương pháp giải các dạng bài tập đó. 
Muốn vậy không ai khác giáo viên phải nghiên cứu và đưa vào thực tế giảng dạy.
b. Một số dạng bài tập hóa học lớp 9 và phương pháp giải
Dạng 1: Hoàn thành sơ đồ chuyển hóa 
Dạng 2: Phương pháp giải bài tập nhận biết
Dạng 3: Phương pháp giải bài tập tách chất
Dạng 4: Bài tập về oxit axit tác dụng với dung dịch bazơ
c. Phương pháp giải các dạng bài tập:
 Dạng 1: Hoàn thành sơ đồ chuyển hóa
a.Phương pháp: Nắm chắc kiến thức về tính chất hóa học của các chất vô cơ ,mối quan hệ giữa các hợp chất, điều chế các hợp chất.
b. Các ví dụ cụ thể:
Ví dụ1: Viết phương trình hóa học theo sơ đồ chuyển hóa sau:
 a) S (1) SO2 (2) SO3 (3) H2SO4 (4) SO2 (5) H2SO3 (6) Na2SO3
 (7 ) (8)
 NaHSO3 Na2SO4
 b) FeCl3 Fe(OH)3 Fe2O3 FeCl3
 Fe(NO3)3
Bài giải
t0
a)
 (1) S + O2 SO2
t0, V2O5
 (2) 2SO2 + O2 2SO3
 (3) SO3 + H2O H2SO4
 (4) H2SO4 + Na2SO3 Na2SO4 + H2O + SO2
 (5) SO2 + H2O H2SO3
 (6) H2SO3 + 2NaOH Na2SO3 + 2H2O
 (7) SO2 + NaOH NaHSO3
 (8) H2SO4 + 2NaOH Na2SO4 + 2H2O
b) Bài giải
(1) FeCl3 + 3NaOH Fe(OH)3 + 3NaCl
(2) Fe(OH)3 + 3HCl FeCl3 + 3H2O
t0
(3) 2Fe(OH)3 Fe2O3 + 3H2O
(4) FeCl3 + 3AgNO3 3AgCl + Fe(NO)3
(5) Fe(NO3)3 + 3NaOH Fe(OH)3 + 3NaNO3
(6) Fe2O3 + 6HCl 2FeCl3 + 3H2O
Ví dụ 2: Có những chất sau: Na2O, Na, NaOH, NaHCO3, Na2SO4, Na2CO3, NaCl, NaClO.
a. Dựa vào mối quan hệ giữa các chất, hãy sắp xếp các chất trên thành một sơ đồ chuyển hóa không nhánh.
b. Viết phương trình hóa học theo sơ đồ trên.
c. Sơ đồ chuyển hóa:
Na Na2O NaOH NaHCO3 Na2CO3 NaCl 
Đây là dạng bài tập dùng cho đối tượng học sinh đại trà. 
Phương trình hóa học:
4Na + O2 2Na2O
Na2O + H2O 2 NaOH
NaOH + CO2 NaHCO3
NaOH + NaHCO3 Na2CO3 + H2O
Na2CO3 + H2SO4 Na2SO4 + CO2 + H2O
Na2SO4 + BaCl2 BaSO4 + 2NaCl
t0
Ví dụ 3: Có những chất sau: Zn, Zn(OH)2, NaOH, Fe(OH)3, CuSO4, NaCl, HCl. Hãy chọn chất thích hợp điền vào mỗi sơ đồ phản ứng sau và lập phương trình hóa học:
a) ... Fe2O3 + H2O
b) H2SO4 + ... Na2SO4 + H2O
c) H2SO4 + ... ZnSO4 + H2O
d) NaOH + ... NaCl + H2O
e) ... + CO2 Na2CO3 + H2O
t0
Bài giải:
a) 2Fe(OH)3 Fe2O3 + 3H2O
b) H2SO4 + 2NaOH Na2SO4 + H2O
c) H2SO4 + Zn(OH)2 ZnSO4 + H2O
d) NaOH + HCl NaCl + H2O
e) 2NaOH + CO2 Na2CO3 + H2O
 Dạng 2: Phương pháp giải bài tập tách chất
 Phương pháp:
1. Nội dung: 
Có hỗn hợp nhiều chất trộn lẫn với nhau dùng phản ứng hóa học kết hợp với sự tách, chiết, đun sôi, cô cạn, để tách một chất ra khỏi hỗn hợp hay tách các chất ra khỏi nhau.
Sử dụng tính chất hóa học khác nhau.
Sử dụng tính chất vật lí
2. Các dạng toán tách riêng chất ra khỏi hỗn hợp 
a) Tách một chất ra khỏi hỗn hợp, làm sạch chất
Dạng toán này chỉ cần tách riêng một chất ra khỏi hỗn hợp, loại bỏ các chất khác, ta có một trong hai cách giải sau:
* Cách 1: Dùng hóa chất phản ứng tác dụng lên các chất cần loại bỏ, còn chất được tách riêng không tác dụng sau phản ứng được tách ra dễ dàng
Ví dụ 1: Có hỗn hợp Cu, Zn, Fe. Hãy tách Cu ra khỏi hỗn hợp.
Bài giải:
Cho hỗn hợp vào cốc đựng dung dịch HCl dư thì Zn, Fe tan. Cu không tan lọc tách được Cu.
Zn +2HCl ZnCl2 + H2
Fe +2HCl FeCl2 + H2
Ví dụ 2: Bột kim loại sắt có lẫn bột nhôm. Hãy nêu phương pháp hóa học làm sạch sắt.
 Bài giải:
Cho hỗn hợp bột vào dung dịch NaOH dư, nhôm tan hoàn toàn trong dung dịch, lọc tách sắt ra khỏi dung dịch rửa sạch ta thu được Sắt nguyên chất.
2Al + 2NaOH +2H2O 2NaAlO2 + 3H2
Ví dụ 3: Có hỗn hợp khí CO2 và O2. làm thế nào có thể thu được khí O2 ừ hỗn hợp trên? Trình bày cách làm và viết phương trình hóa học
 Bài giải:
Dẫn hỗn hợp vào dung dịch nước vôi trong dư, lúc đó CO2 bị hấp thụ hoàn toàn theo phản ứng:
CO2 + Ca(OH)2 CaCO3 + H2O
Còn O2 Không phản ứng, thoát ra khỏi dung dịch được thu lấy.
 Dùng hóa chất tác dụng với chất cần muốn tách riêng tạo ra sản phẩm mới, sản phẩm dễ tách khỏi hỗn hợp và dễ tái tạo lại chất ban đầu.
Ví dụ: Có hỗn hợp ba muối rắn BaCl2, KCl, NaCl. Hãy tách riêng BaCl2 khỏi hỗn hợp.
 Bài giải:
	Cho hỗn hợp vào cốc đựng dung dịch Na2CO3 dư
BaCl2 + Na2CO3 BaCO3 + 2NaCl
	Lọc tách BaCO3, rồi cho tác dụng với dung dịch HCl dư:
	BaCO3 + 2HCl BaCl2 + CO2 + H2O
Dạng 3: BÀI TẬP VỀ OXIT AXIT TÁC DỤNG VỚI KIỀM:
1- Khi cho oxit axit (CO2, SO2...) vào dung dịch kiềm (NaOH, KOH...) có các trường hợp sau xảy ra:
* Trường hợp 1:	
Khi cho CO2,SO2 vào dung dịch NaOH, KOH ( kiềm) dư ta có một sản phẩm là muối trung hoà + H2O ).
	Phương trình:
	CO2 + 2NaOH " Na2CO3 + H2O
	SO2 + 2KOH " K2SO3 + H2O
* Trường hợp 2:
 Khi cho CO2, SO2 dư vào dung dịch NaOH, dung dịch KOH thì sản phẩm thu được là muối axit duy nhất.
	Phương trình:
	CO2 + NaOH " NaHCO3
 	Hoặc cách viết:
	CO2 + 2NaOH " Na2CO3 + H2O.
 Vì CO2 dư nên CO2 tiếp tục phản ứng với muối tạo thành:
	CO2 + Na2CO3 + H2O " 2NaHCO3 .
* Trường hợp 3:
 Nếu biết thể tích hoặc khối lượng của oxit axit và dung dịch kiềm thì trước hết ta phải tính số mol của cả 2 chất tham gia rồi lập tỉ số.
a, Nếu:
	 ≤ 1
Kết luận: Sản phẩm tạo ra muối axit và CO2 hoặc SO2 còn dư.
Phương trình phản ứng:(xảy ra cả 2 phản ứng)
	CO2 + 2NaOH " Na2CO3 + H2O. (1)
	CO2 + Na2CO3 + H2O " 2NaHCO3. (2)
b, Nếu:
	 ≥ 2 
Kết luận: Sản phẩm tạo ra muối trung hoà 
Phương trình hóa học:
	CO2 + 2NaOH " Na2CO3 + H2O. (1)
c, Nếu:
	1 < < 2
KÕt luËn: S¶n phÈm t¹o ra lµ hçn hîp hai muèi: Muèi axit vµ muèi trung hoµ .
Phương trình phản ứng
	Ví dụ:	CO2 + NaOH " NaHCO3	(I)
	 	CO2 + 2NaOH " Na2CO3 + H2O. 
Hoặc cách viết:
	 CO2 + 2NaOH " Na2CO3 + H2O. 
	 CO2 + Na2CO3 + H2O " 2NaHCO3. (II) 	 
Hoặc: 
	CO2 + NaOH " NaHCO3
	NaHCO3 + NaOH " Na2CO3 + H2O (III)
Nhận xét :
	- Trong cách viết phản ứng (

Tài liệu đính kèm:

  • docphan_loai_va_phuong_phap_giai_mot_so_dang_bai_tap_nham_nang.doc