Một số kinh nghiệm trong dạy học lịch sử địa phương bậc THCS theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh qua bài “Khởi nghĩa Bà Triệu Tiết 37 – Lịch sử địa phương lớp 6
Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành của lịch sử dân tộc. Học tập, tìm hiểu lịch sử địa phương là một yêu cầu quan trọng trong quá trình tìm hiểu lịch sử dân tộc, có tác dụng quan trọng trong việc giáo dục truyền thống, lòng yêu quê hương đất nước của học sinh, từ đó khơi dậy niềm tự hào và trách nhiệm cụ thể của người học đối với quê hương, đất nước. Xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu này, trong chương trình bộ môn lịch sử ở trường THCS hiện nay, ở các khối lớp đều được bố trí một số tiết lịch sử địa phương để các em tìm hiểu.
Chúng ta đều biết rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra đều mang tính chất địa phương, vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể của một địa phương nhất định dù rằng các sự kiện đó có tính chất, quy mô và mức độ ảnh hưởng khác nhau.Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp nhưng cũng có những sự kiện, hiện tượng mà tác động của nó vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia, thậm chí là ý nghĩa quốc tế.Mặt khác, tìm hiểu về lịch sử địa phương không chỉ là việc riêng của các nhà nghiên cứu mà còn là nhu cầu của mỗi con người.
Từ thời cổ đại, Xi-xê-rông - một chính trị gia nổi tiếng của Rô- ma cổ đã nói: “Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống”. Chính vì lẽ đó, sự hiểu biết về lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự am tường cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về quê hương, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hiểu từ mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc. Các nhà sử học xưa đã nói:"Sử để ghi chép việc, mà việc thì hay hoặc dở đều làm gương răn dạy cho đời sau.Các nước ngày xưa nước nào cũng đều có sử."Sử phải tỏ rõ được sự phải-trái công bằng, yêu ghét, vì lời khen của Sử còn vinh dự hơn áo đẹp của vua ban, lời chê của sử còn nghiêm khắc hơn búa rìu, Sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn đời".
1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài. Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành của lịch sử dân tộc. Học tập, tìm hiểu lịch sử địa phương là một yêu cầu quan trọng trong quá trình tìm hiểu lịch sử dân tộc, có tác dụng quan trọng trong việc giáo dục truyền thống, lòng yêu quê hương đất nước của học sinh, từ đó khơi dậy niềm tự hào và trách nhiệm cụ thể của người học đối với quê hương, đất nước. Xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu này, trong chương trình bộ môn lịch sử ở trường THCS hiện nay, ở các khối lớp đều được bố trí một số tiết lịch sử địa phương để các em tìm hiểu. Chúng ta đều biết rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra đều mang tính chất địa phương, vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể của một địa phương nhất định dù rằng các sự kiện đó có tính chất, quy mô và mức độ ảnh hưởng khác nhau.Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp nhưng cũng có những sự kiện, hiện tượng mà tác động của nó vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia, thậm chí là ý nghĩa quốc tế.Mặt khác, tìm hiểu về lịch sử địa phương không chỉ là việc riêng của các nhà nghiên cứu mà còn là nhu cầu của mỗi con người. Từ thời cổ đại, Xi-xê-rông - một chính trị gia nổi tiếng của Rô- ma cổ đã nói: “Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống”. Chính vì lẽ đó, sự hiểu biết về lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự am tường cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về quê hương, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hiểu từ mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc. Các nhà sử học xưa đã nói:"Sử để ghi chép việc, mà việc thì hay hoặc dở đều làm gương răn dạy cho đời sau.Các nước ngày xưa nước nào cũng đều có sử."Sử phải tỏ rõ được sự phải-trái công bằng, yêu ghét, vì lời khen của Sử còn vinh dự hơn áo đẹp của vua ban, lời chê của sử còn nghiêm khắc hơn búa rìu, Sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn đời". Tuy vậy, việc thực hiện các tiết lịch sử địa phương trong chương trình lịch sử THCS đang đứng trước một thực tế là vốn kiến thức về lịch sử địa phương của giáo viên nhìn chung còn mỏng, do vậy để soạn được một tiết lịch sử địa phương nhiều giáo viên đã gặp không ít khó khăn trong phần kiến thức trọng tâm, cơ bản. Một số giáo viên lại máy móc chuyển tải toàn bộ phần nội dung có trong tài liệu do Sở GD&ĐT ban hành mà thiếu đi sự linh động, uyển chuyển, kết hợp với phần "riêng" của huyện, xã. Với các tiết như vậy thường luôn nặng nề, "quá tải" và phần nào khó thu hút học sinh Từ khó khăn đó nảy ra tâm lý ngại khó. Khi đến các tiết lịch sử địa phương, nhiều giáo viên thường đã thực hiện một cách chiếu lệ, đối phó (Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến lịch sử địa phương ví dụ: Em hãy kể về một số sự kiện, nêu một số địa danh.... Điều này diễn ra càng phổ biến với các giáo viên không "chuyên" được phân công giảng dạy bộ môn lịch sử). Thậm chí còn có giáo viên "mạnh dạn" bỏ qua, nhảy tiết không chú trọng đến lịch sử địa phương. Việc nắm vững kiến thức trọng tâm cần thực hiện ở tiết lịch sử địa phương đã khó nói gì đến việc giáo viên chú ý nghiên cứu các phương pháp giảng dạy để giáo dục truyền thống quê hương qua tiết học cho học sinh. Vì vậy mục tiêu của chương trình đặt ra đối với các tiết lịch sử địa phương dường như chưa đạt được như mong muốn. Từ thực tế đó, nhiều năm qua bản thân tôi đã dồn tâm huyết cho việc xây dựng các phương pháp giảng dạy lịch sử địa phương nhằm đạt mục tiêu cho học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ nhớ và qua đó giáo dục truyền thống quê hương cho các em. Trong khuôn khổ của bài viết, tôi xin mạnh dạn trình bày đề tài: “ Một số kinh nghiệm trong dạy học lịch sử địa phương bậc THCS theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh qua bài “Khởi nghĩa Bà Triệu”Tiết 37 –Lịch sử địa phương lớp 6 1.2. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu thực trạng dạy học môn lịch sử địa phương, từ đó tìm ra phương pháp dạy học theo hướng tích cực để giảm bớt sự khô khan trong giờ học và đưa ra phương pháp bổ trợ nhằm kích thích sự hứng thú trong học tập ở các em. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu : Là thực trạng dạy- học lịch sử địa phương của Giáo viên và HS ở trường THCS. - Đơn vị nghiên cứu: Trường THCS Cao Thịnh _ Ngọc Lặc gồm: 1 số Giáo viên đã và đang giảng dạy bộ môn lịch sử. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp tổng hợp những kinh nghiệm của đồng nghiệp và của bản thân. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu và các văn bản về lí luận có liên quan đến đề tài. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Khi chưa có sáng kiến kinh nghiệm tôi đó từng sử dụng giải phương pháp dạy thuyết trình bằng miệng, có sử dụng bản đồ có sẳn, đặt câu hỏi cho học sinh trả lời sau đó giáo viên chốt ý và ghi bảng nội dung bài học. Có sử dung một số phương pháp thảo luận nhưng không có kết quả cao Qua phương pháp giảng dạy trên một thời gian tôi nhận thấy các nguyên nhân làm nên sự yếu kém về chất lượng dạy học là: + Giáo viên chưa thực sự đầu tư tâm huyết vào nội dung bài dạy, chưa chuẩn bị chu đáo ( nguyên nhân do hoàn cảnh kinh tế, do tinh thần trỏch nhiệm, thiếu tài liệu). + Giáo viên chưa sử dụng được hiệu quả việc trình bày sự kiện bằng lược đồ, tranh ảnh lịch sử, nhân vật, chưa biết lồng ghép kể chuyển, thơ ca trong lịch sử địa phương + Chưa phát huy được tính tích cực chủ động, sự hưng phấn học tập của học sinh trong tiết học lịch sử. Học sinh là trung tâm giải quyết mọi vấn đề. + Học sinh về nhà cũng nhác học, xem nhẹ môn lịch sử. + Khi đánh giá kết quả cuối học kỳ và cuối năm học thì không thi vào lich sử địa phương nên học sinh không học. + Sự quan tâm phụ đạo đối với học sinh yếu kém và học sinh giỏi môn lịch sử cũng xem nhẹ trong trường học. + Tuy nhiên cũng rất nhiều yếu tố khác gây ảnh hưởng đến kết quả dạy và học của học sinh đối với môn lịch sử. Nhưng trong các nguyên nhân trên có hai nguyên nhân chủ yếu căn bản gây ảnh hưởng đến kết quả học tập, sự hưng phấn đối với học sinh là: Giáo viên chưa xây dựng được quy trình thực hiện lên lớp một bài giảng tốt, hợp lý, thiếu tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học và đặc biệt tâm huyết nghề nghiệp chưa cao; Giáo viên chưa sử dụng tốt phương pháp đổi mới dạy học “lấy học sinh làm trung tâm ” cũng lúng túng.Vì vậy phát huy tính chủ động,sáng tạo của học sinh qua tiết lịch sử địa phương cũng chưa được phổ biến nhiều. Vì vậy sử dụng các phương pháp dạy học lịch sử nói chung làm sao cho tiết học lịch sử địa phương học sinh học và tiếp thu bài tích cực hơn so với các môn học khac là một nghệ thuât. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Môn lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa đối với giáo dục thế hệ trẻ.Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc.Tự hào với những thành tựu dựng nước của tổ tiên, xác định vị trí trong hiện tại, có thái độ đúng với sự phát triển hợp qui luật của tương lai.Trong nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá 8(tháng 2 năm 1997) đã khẳng định vai trò của môn lịch sử cùng các môn khoa học khác trong công tác giáo dục.Không những ngày nay, nhà nước mới quan tâm đến giáo dục mà ngay từ năm 1998, luật giáo dục cũng đã xác định “ phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực của học sinh, bồi dưỡng năng lực học tập có lòng say mê học tập và có ý thức vươn lên”.cũng như các môn học khác, đặc điểm và chức năng của mình, việc học tập lịch sử lại cần phát huy tính năng lực tích cực của học sinh. Lòng yêu quê hương là biểu hiện quan trọng nhất của lòng yêu nước chân chính.Từ thuở bé thơ mỗi chúng ta đều biết về con người, cảnh vật, quá khứ nơi chôn nhau, cắt rốn của mình. Những câu hát ru, những câu chuyện cổ tích của bà, mẹ, chị mà một phần không nhỏ nói về quê hương, đã sớm in sâu vào tâm trí trẻ em, làm tăng thêm lòng yêu quê da diết và là tri thức ban đầu về quê hương. Các môn học về địa phương(địa phương học ) ở trường THCS, trong đó có những tiết lịch sử địa phương có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp, bổ sung những kiến thức khoa học về tự nhiên, xã hội của quê hương trên mọi lĩnh vực.Tiếc rằng, trong nhiều năm qua những tiết học về địa phương chưa được chú trọng, thậm chí có trường còn xem là giờ phụ có thể dạy, hoặc bỏ qua.Và do quan niệm khác nhau nên nhiều người chưa coi trọng lịch sử địa phương mặc dù trong chương trình dạy môn lịch sử không thể thiếu mảng kiến thức này.Đây không chỉ là thiếu sót của người dạy mà còn là một thiệt thòi cho HS khi muốn tìm hiểu về lịch sử của dân tộc, quê hương. Ở nước ta, việc nghiên cứu lịch sử địa phương, với tư cách là một ngành khoa học được bắt đầu từ sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc. Từ sau ngày miền Nam giải phóng, công tác này được tiến hành trên phạm vi cả nước.Hầu hết các tỉnh đã biên soạn được lịch sử của tỉnh và kể cả huyện, xã.Tỉnh Thanh Hoá chúng ta cũng đã được một số tác giả như:giáo sư Phan Ngọc Liên(Chủ tịch Hội đồng bộ môn lịch sử-Bộ giáo dục và đào tạo; Chủ tịch Hội Giáo dục lịch sử Việt Nam) cùng một số tác giả của trường Cao đẳng Sư phạm Thanh Hoá (nay là trường Đại học Hồng Đức) như:Hoàng Thanh Hải, Vũ Quí Thu biên soạn và xuất bản cuốn giáo trình Lịch sử Thanh Hoá năm 1996 trước đây cho sinh viên lấy tài liêu học tập, tuy nhiên những tài liệu viết về lịch sử về địa phương còn quá ít, sách tham khảo cho giáo viên còn hạn chế. Thanh Hoá là một tỉnh lớn, có bề dày lịch sử lâu đời và oanh liệt, gắn với lịch sử chung của dân tộc.Thanh Hoá còn là mảnh đất chứa đựng trong lòng nó tính đặc sắc của nền văn hoá các dân tộc thiểu số cũng là một tư liệu hết sức phong phú về lịch sử địa phương.Vì lẽ đó, không có lí do nào để chúng ta -những người dạy sử lại bỏ trống mảng này. Cá nhân tôi cho rằng, với nguồn tư liệu lịch sử địa phương hết sức phong phú như vậy thì 8 tiết trong phân phối chương trình quả là quá ít, bởi vì chúng ta có rất nhiều điều cần giảng dạy cho các em và các em cũng có nhiều điều chưa biết. Trong chương trình lịch sử THCS, các tiết lịch sử địa phương có mặt với số lượng không lớn chỉ có 8 tiết trong cả bốn khối lớp ( 6, 7, 8, 9) nếu không muốn nói là khiêm tốn. Có lẽ vì thế, mà nhiều giáo viên chưa chú trọng, đầu tư vào các tiết dạy chương trình lịch sử địa phương hoặc có khi còn bỏ qua. Đây là nội dung mới được đưa vào SGK lịch sử THCS. Cho nên không tránh khỏi những khó khăn cho giáo viên trong việc sưu tầm và lựa chọn nội dung dạy- học mang tính địa phương, tổ chức cho học sinh học tập những nội dung mang tính địa phương. Vấn đề đặt ra là mỗi giáo viên phải lựa chọn xác định cho mình những nội dung và cách thức học tập phù hợp. Có thể nói đây là phần chương trình có khả năng dung nạp lớn nhất mọi hình thức học tập (Trên lớp, ở nhà, nội khoá, ngoại khoá, điền dã.....) Cũng là phần có điều kiện thuận lợi nhất trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với phương pháp dạy - học tích cực. Vì vậy, không nên dạy một cách qua loa, đại khái hoặc bỏ qua các tiết lịch sử địa phương. Ở đây, tôi xin đưa ra phương hướng dạy - học bài lịch sử địa phương theo phương pháp dạy học tích cực mà qua thực tế tôi thấy phát huy được tính năng động, sáng tạo của học sinh. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. *Ứng dụng một bài giảng: Một số kinh nghiệm trong dạy học lịch sử địa phương bậc THCS theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh qua bài “Khởi nghĩa Bà Triệu”Tiết 37 –Lịch sử địa phương lớp 6 TIẾT 37: KHỞI NGHĨA BÀ TRIỆU A. MỤC TIÊU BÀI HỌC: 1.Kiến thứcGiúp HS nắm được: - Tình hình đất nước trước khởi nghĩa Bà Triệu và nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa. - Tiểu sử Triệu Thị Trinh, căn cứ và diễn biến của cuộc khởi nghĩa. - Nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. - Liên hệ chương trình lich sử dân tộc đã học,học sinh hiểu sâu sắc thêm về phong trào nói chung của cả nước,đắc biệt ở Thanh Hoá với những sự kiện,nhân vật lịch sử nổi tiếng bấy giờ. 2.Tư tưởng - Giáo dục lòng tự hào,về truyền thống yêu nước,khâm phục và biết ơn trước sự hy sinh anh dũng của Bà Triệu, các vị tiền bối lúc bấy giờ. Xác định trách nhiệm của bản thân với truyền thống của quê hương. 3.Kĩ năng - Rèn luyện kĩ năng sưu tầm, xử lí tư liệu lịch sử địa phương, so sánh, đối chiếu với lịch sử dân tộc trong cùng một giai đoạn. B.CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH. 1.Giáo viên: -Sử dụng lược đồ:Lược đồ khởi nghĩa Bà Triệu. - Tranh ảnh: Lăng Bà Triệu,đền thờ Bà Triệu,đình làng Phú Điền, tranh về Triệu Quốc Đạt... 2.Học sinh - Học bài cũ. - Đọc trước nội dung bài mới. - Bài làm theo nhóm trên máy tính. C.TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP. a.Ổn định lớp : Kiểm tra sĩ số, ổn định tổ chức lớp học. b.Kiểm tra bài cũ Câu hỏi:Nêu diễn biến, ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938? Giới thiệu bài mới:Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, cùng với nhân dân Giao Chỉ và Nhật Nam, người quận Cửu Chân đã không ngừng vùng lên đấu tranh để giành độc lập tự chủ. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.Vậy cuộc khởi nghĩa đó diễn ra như thế nào,hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu rõ. C.Bài mới: MỤC I:TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC TRƯỚC KHỞI NGHĨA BÀ TRIỆU Mục này yêu cầu học sinh nắm được: Tình hình nước ta trước khi cuộc khởi nghĩa Bà Triệu diễn ra như thế nào. Hoạt động của thầy và trò Kiến thức cơ bản Hoạt động 1:Tình hình nước ta trước khi cuộc khởi nghĩa Bà Triệu diễn(10phút) ? Sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, tình hình đất nước ta như thế nào? (Giành cho đối tượng HS trung bình,yếu) HS:Dựa vào SGK GV bổ sung:Nước ta lúc này tiếp tục bị nhà Đông Hán đô hộ.Chính quyền Đông Hán tăng cường đàn áp, bóc lột nhân dân ta.Phong trào đấu tranh của nhân dân ta tạm lắng xuống,song lại tiếp tục bùng lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.Tiêu biểu có khởi nghĩa Chu Đạt. GV: Gọi HS khá,giỏi lên xác địnhvị trí căn cứ khởi nghĩa Chu Đạt - thuộc địa phận 3 huyện: Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh(Phụ Lục 1) ? Em biết gì về khởi nghĩa Chu Đạt?HS trả lời theo SGK ; (HS khá,giỏi trình bày)dựa vào phụ lục 2 GV:Bổ sungNăm 156, Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là thôn Phú Hào, xã Thọ Phú, huyện Triệu Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày nay). GV giới thiệu: Đến đầu thế kỉ III, nhà Đông Hán suy yếu, đất nước Trung Quốc chia thành 3 nước Ngụy, Thục, Ngô. Đất nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Ngô. GV:Trình chiếu phụ lục 3,4 cho HS quan sát ? Nêu chính sách cai trị của nhà Ngô đối với nước ta? (Giành cho HS khá,giỏi,trung bình). HS:Quan sát tranh ảnh và dựa vào kiến thức trong sách lịch sử địa phương suy nghĩ trả lời GV bổ sung kiến thức: Nhà Ngô tách Châu Giao thành Quảng Châu và Giao Châu (Âu Lạc cũ); chia Giao Châu thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. 2 - - Nắm quyền từ trung ương đến địa phương, thắt chặt hơn bộ máy cai trị, tìm mọi cách bóc lột, đàn áp nhân dân ta. + Đóng thuế (muối và sắt), lao dịch và nộp cống (sản vật quý, sản phẩm thủ công và thợ khéo) + Đưa người Hán sang Giao Châu, buộc dân ta phải học chữ Hán và tiếng Hán, tuân theo luật pháp và phong tục của người Hán. ? Chính sách đàn áp, bóc lột của nhà Ngô dẫn đến hậu quả gì? (Giành cho học sinh khá,giỏi,trung bình,yếu) GV:Với những chính sách trên làm cho đời sống của nhân dân ta vô cùng khốn khổ,các phong trào đấu tranh của nhân dân ta bùng lên, điển hình là khởi nghĩa Bà Triệu. Chuyển tiếp:Cuộc khởi nghĩachống lại giặc Ngô diễn ra như thế nào? Kết quả ra sao chúng ta sẽ tìm hiểu ở mục II. -Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nước ta tiếp tục bị nhà Đông Hán đô hộ. - Đến đầu thế kỉ III, nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Ngô. - Nhà Ngô ra sức đàn áp, bóc lột, đồng hóa nhân dân ta. => Phong trào đấu tranh của nhân dân ta bùng lên, điển hình là khởi nghĩa Bà Triệu MỤC II:KHỞI NGHĨA BÀ TRIỆU Mục này yêu cầu học sinh nắm được:Nguyên nhân,diễn biến, kết quả cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Hoạt động của thầy và trò Kiến thức cơ bản Hoạt động 2:Tìm hiểu vì sao cuộc khởi nghĩa Bà Triệu diễn ra (15phútt) HS:Đọc phần II GV:Dùng máy chiếu tranh ảnh (Phụ lục 3,4). HS:Quan sát tranh ảnh trên. ?Nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Bà Triệu diễn ra?(Giành cho HS yếu,trung bình) HS:Dựa vào tranh ảnh và SGK trả lời GV bổ sung:Dưới ách thống trị của nhà Ngô, nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân bị áp bức, bóc lột rất nặng nề. Chính vì vậy, người Giao Chỉ, Cửu Chân đã không ngừng nổi dậy chống lại ách thống trị của nhà Đông Ngô.Vì vậy cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu diễn ra.Đây cuộc khởi nghĩa lớn nhất, tác động mạnh nhất tới dân chúng và làm chính quyền đô hộ hết sức lo ngại. GV:Trình chiếu về hình ảnh bà Triệu(Phụ lục 5) ?Em biết gì về Bà Triệu?(Giành cho HS yếu,trung bình) HS trả lời theo SGK, GVbổ sung:“Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh, có anh là Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực ở huyện Quan Yên, quận Cửu Chân (miền núi Nưa, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa). Bà là người có sức khỏe, có chí lớn và giàu mưu trí. Năm 19 tuổi, người con gái đầy khí phách ấy đã cùng anh tập hợp những nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa, mài gươm, luyện võ, chuẩn bị khởi nghĩa. Nhân dân khắp vùng nô nức hưởng ứng công cuộc cứu nước của Bà Triệu”. Người ta đồn rằng, tuổi thanh niên, bà đã đánh được voi dữ một ngà và thu phục nó. Bởi thế, trong dân gian còn lưu truyền bàica: ? HS sưu tầm những câu ca, bài đồng dao viết về Bà Triệu mang tính địa phương (sưu tầm lịch sử ở nhà)như bài: Có bà Triệu tướng Vâng lệnh trời ra Trị voi một ngà Dựng cờ mở nước Lệnh truyền sau trước Theo gót Bà Vương. "Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng" Hoặc: "Tùng sơn nắng quyện mây trời Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh" ?Em hiểu như thế nào về câu nói của Bà Triệu: “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh,đạp luồn sóng dữ,chém cá kình ở biển Đông..tì thiếp người ta” (Giành cho các đối tượng HS) HS:Dựa vào SGK GV bổ sung:Bà Triệu có ý chí đấu tranh kiên cường để giành lại độc lập dân tộc,không chịu làm nô lệ cho quân Ngô,Bà nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân cho độc lập dân tộc. GV:Trình chiếu các hình ảnh Bà Triệu chuẩn bị dựng cờ khởi nghĩa(phụ lục 6,7) ?Nhân dân tỉnh Thanh đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu như thế nào? (Giành cho HS Yếu,Trung bình) HS:Dựa vào kênh hình và SGK trả lời GV bổ sung:Hưởng ứng lá cờ khởi nghĩa của hai anh em Bà Triệu, nhân dân ở Cửu Chân theo rất đông. Nghĩa quân ngày đêm luyện tập, mài gươm luyện võ, chờ ngày nổi dậy. GV cho hs đọc bài ca dao nói về Bà Triệu? HS:Chuẩn bị ở nhà dọc “Ru con con ngủ cho lành Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi Muốn coi lên núi mà coi Coi Bà Triệu tướng cỡi voi đánh cồng” GV: Cho HS xem bản đồ Thanh Hóa,(Phụ lục 8)chỉ vị trí căn cứ núi Nưa (Nông Cống, Triệu Sơn, Như Thanh) và các hình ảnh về ngọn núi này. HS:Thuyết trình về căn cứ này(chuẩn bị bài ở nhà) ? Tại sao anh em Bà Triệu chọn núi Nưa làm căn cứ ? HS:Dựa vào lược đồ trả lời GV bổ sung giảng về vị trí của căn cứ núi Nưa: Phía Tây: rừng núi trùng điệp hiểm trở, phía Đông có thể liên hệ với đồng bằng Thanh Hóa là nơi sẽ cung cấp lương thực, vũ khí... HS xác định vị trí thành Tư Phố trên bản đồ (nay thuộc Thiệu Dương, TPThanh Hóa), chỉ hướng mở rộng vùng hoạt động của nghĩa quân xuống Hậu Lộc. ? Trình bày hiểu biết của em về Căn cứ Phú Điền? (Giành cho HS Khá,Giỏi) HS:Dựa vào Lược đồ và SGK GV bổ sung: Là thung lũng nhỏ giữa hai dãy núi đá vôi thấp. Phía Bắc là núi Châu Lộc (ngăn cách Thanh Hóa-Ninh Bình). Phía Nam là đoạn cuối dãy núi chạy theo sông Mã.Thung lũng mở rộng về phía đồng bằng ven biển, nằm ở cửa ngõ từ Đồng bằng Bắc Bộ vào Thanh Hóa . Địa thế hiểm yếu, thuận lợi cả tấn công lẫn phòng thủ. - GV giới thiệu: Nhân dân theo Bà Triệu khởi nghĩa rất đông. ?Dùng lược đồ để tường thuật cuộc khởi nghĩa?(Phụ lục 1)(Giành cho HS khá,giỏi) HS:Lần lượt lên bảng trình bày GV tường thuật lại diễn biến khởi nghĩa trên bản đồ theo hiệu ứng. Cuộc khởi nghĩa ngày càng lớn mạnh, bộ máy cai trị của bọn đô hộ ở Cửu Chân lần lượt tan rã. Ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan ra Giao Chỉ, Cửu Đức, Nhật Nam. Thứ sử Giao Châu bỏ trốn, chính quyền Giao Châu có nguy cơ tan rã. ?Khi ra trận trô
Tài liệu đính kèm:
- mot_so_kinh_nghiem_trong_day_hoc_lich_su_dia_phuong_bac_thcs.doc