Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu tả ở Trường Tiểu học Xuân Lâm
Tiếng Việt được coi là môn học trung tâm ở trường Tiểu học. Đó là môn học bắt buộc suốt cấp Tiểu học và chiếm vị trí quan trọng cả về dung lượng và thời gian. Thông qua môn học bồi dưỡng cho các em năng lực tư duy, tưởng tượng, cảm xúc thẩm mĩ, lòng yêu quý và gìn giữ sự trong sáng của Tiếng Việt.
Phân môn Tập làm văn mang tính tổng hợp cao của các kiến thức ngôn ngữ và kĩ năng ngôn ngữ. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc trau dồi và rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh, giúp các em cảm thụ được văn bản (thơ, văn ). Khi học, các em được rèn kĩ năng viết văn miêu tả gắn với quá trình tạo lập văn bản như tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, diễn đạt thành đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh. Trong đó kĩ năng viết đoạn văn là quan trọng nhất. Bên cạnh đó môn Tập làm văn còn làm nảy sinh năng lực mới của các em: Năng lực sáng tạo văn bản nói, viết để làm công cụ tư duy, giao tiếp, học tập góp phần phong phú thêm kiến thức và tiếng mẹ đẻ.
Tuy vậy, thực tế việc dạy và học viết văn miêu tả còn nhiều hạn chế, học sinh làm bài chất lượng chưa cao. Nhiều em chưa nắm được kiểu bài miêu tả, chưa có kĩ năng xây dựng bố cục, chọn ý, xếp ý . Bài văn của các em còn mắc khá nhiều lỗi cả về nội dung và hình thức. Thực tế dạy học như vậy không đáp ứng được nhu cầu giao tiếp.
Ngoài ra bài văn miêu tả của học sinh còn nặng về kể lể, liệt kê các sự vật, sự việc, lời văn lủng củng thiếu ý hoặc sắp xếp ý một cách lộn xộn, chưa có sự liên kết giữa các ý và câu nên khi đọc lên ta thấy tẻ nhạt và nhàm chán.
Trăn trở những vấn đề nêu trên, tôi mạnh dạn áp dụng nghiên cứu và đưa ra: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu tả ở Trường Tiểu học Xuân Lâm.” Với mong muốn giúp các em viết được bài văn hay, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở đó giúp các em rèn kĩ năng sản sinh văn bản, tạo điều kiện để các em tự tìm tòi và tự thể hiện những ý kiến, suy nghĩ của mình một cách độc lập, chủ động, không máy móc, rập khuôn.
1. Mở đầu. 1.1. Lí do chọn vấn đề nghiên cứu. Tiếng Việt được coi là môn học trung tâm ở trường Tiểu học. Đó là môn học bắt buộc suốt cấp Tiểu học và chiếm vị trí quan trọng cả về dung lượng và thời gian. Thông qua môn học bồi dưỡng cho các em năng lực tư duy, tưởng tượng, cảm xúc thẩm mĩ, lòng yêu quý và gìn giữ sự trong sáng của Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn mang tính tổng hợp cao của các kiến thức ngôn ngữ và kĩ năng ngôn ngữ. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc trau dồi và rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh, giúp các em cảm thụ được văn bản (thơ, văn). Khi học, các em được rèn kĩ năng viết văn miêu tả gắn với quá trình tạo lập văn bản như tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, diễn đạt thành đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh. Trong đó kĩ năng viết đoạn văn là quan trọng nhất. Bên cạnh đó môn Tập làm văn còn làm nảy sinh năng lực mới của các em: Năng lực sáng tạo văn bản nói, viết để làm công cụ tư duy, giao tiếp, học tập góp phần phong phú thêm kiến thức và tiếng mẹ đẻ. Tuy vậy, thực tế việc dạy và học viết văn miêu tả còn nhiều hạn chế, học sinh làm bài chất lượng chưa cao. Nhiều em chưa nắm được kiểu bài miêu tả, chưa có kĩ năng xây dựng bố cục, chọn ý, xếp ý. Bài văn của các em còn mắc khá nhiều lỗi cả về nội dung và hình thức. Thực tế dạy học như vậy không đáp ứng được nhu cầu giao tiếp. Ngoài ra bài văn miêu tả của học sinh còn nặng về kể lể, liệt kê các sự vật, sự việc, lời văn lủng củng thiếu ý hoặc sắp xếp ý một cách lộn xộn, chưa có sự liên kết giữa các ý và câunên khi đọc lên ta thấy tẻ nhạt và nhàm chán. Trăn trở những vấn đề nêu trên, tôi mạnh dạn áp dụng nghiên cứu và đưa ra: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu tả ở Trường Tiểu học Xuân Lâm.” Với mong muốn giúp các em viết được bài văn hay, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở đó giúp các em rèn kĩ năng sản sinh văn bản, tạo điều kiện để các em tự tìm tòi và tự thể hiện những ý kiến, suy nghĩ của mình một cách độc lập, chủ động, không máy móc, rập khuôn. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Tìm hiểu thực trạng và đưa ra biện pháp rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn miêu tả cho học sinh lớp 5, Trường Tiểu học Xuân Lâm. - Quan sát, tìm ý. - Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, diễn đạt. - Xây dựng quy trình để hoàn thiện cách viết đoạn văn miêu tả ở lớp 5. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Thể loại văn miêu tả lớp 5. - Học sinh lớp 5B Trường Tiểu học Xuân Lâm. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các tài liệu, sách có liên quan đến đề tài. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. - Phương pháp trao đổi, tọa đàm với đồng nghiệp. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp thống kê. 2. Nội dung. 2.1. Cơ sở lí luận. Theo Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển thì miêu tả là: “Lấy nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật” . Còn theo nhà văn Tô Hoài trong cuốn sách Một số kinh nghiệm viết văn của tôi thì nhấn mạnh: “Nói miêu tả, dễ tưởng miêu tả chỉ là vẽ phong cảnh trời nắng, trời mưa, chớp bể mưa nguồn và thiên nhiên: cây vườn, bãi cỏ, con sông Không, hàng đầu miêu tả là chú trọng sự việc, con người.” Miêu tả là hòn đá thử vàng đối với các tài năng văn học, tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm văn học. Có những tác giả đã tốn công vô ích ghi chép rồi đưa vào tác phẩm của mình vô vàn chi tiết khi miêu tả, nhưng người đọc vẫn chẳng nhìn thấy gì hết ngoài các dòng chữ tẻ nhạt. ngược lại, chỉ vài nét thôi các tài năng đích thực đã tạo nên bức tranh phong cảnh, những bức chân dungtuyệt diệu. Văn miêu tả là một bức tranh vẽ các sự vật, hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Nhưng văn miêu tả không phải là sự sao chép thực tế khách quan mà đó là sự kết tinh của các nhận xét tinh tế, của trí tưởng tượng phong phú và những rung động sâu sắc mà người viết thu lượm được khi quan sát cuộc sống. Trước hết ta tìm hiểu Thế nào là đoạn văn? * Khái niệm đoạn văn: Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 định nghĩa đoạn văn như sau: “Mỗi đoạn văn miêu tả một nội dung nhất định. Khi viết, hết mỗi đoạn văn cần xuống dòng”. Việc định nghĩa như trên chủ yếu giúp học sinh nhận ra dấu hiệu để nhận biết đoạn văn còn chức năng của đoạn văn trong văn bản thì không được nhắc đến. Theo quan điểm của tác giả Lê Phương Nga trong Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học: “Đoạn văn là một bộ phận của văn bản bao gồm một số câu liên kết với nhau chặt chẽ, thể hiện một cách tương đối trọn vẹn về một tiểu chủ đề. Nó có một cấu trúc nhất định và được tách ra khỏi đoạn văn khác bằng dấu hiệu chấm xuống dòng và bắt đầu bằng chữ cái viết hoa thụt đầu dòng”. Đoạn văn miêu tả hoàn chỉnh được cấu thành bởi ba loại đoạn văn xét theo chức năng là đoạn mở (phần mở bài), đoạn phát triển (phần thân bài) và đoạn kết bài (phần kết bài). Phần mở bài và kết bài thường chỉ là một đoạn, còn phần thân bài thường gồm nhiều đoạn liên kết với nhau, mỗi đoạn sẽ làm sáng tỏ một khía cạnh, một đặc điểm của đối tượng miêu tả. 2.2. Thực trạng. 2.2.1 Thực trạng chương trình, nội dung văn miêu tả và sách hướng dẫn học Tiếng việt 5 chương trình VNEN: Trong chương trình VNEN Tập làm văn lớp 5 học sinh được trang bị kiến thức cần thiết về văn miêu tả, về kĩ năng viết đoạn văn, bài văn miêu tả. Các kiến thức này được cung cấp qua các nội dung: Cấu tạo bài văn miêu tả, Luyện tập quan sát, Luyện tập lập dàn dàn ý, Luyện tập xây dựng đoạn văn, Bài viết và trả bài viết. Các nội dung này là một khuôn mẫu, được lặp lại ở các kiểu bài văn miêu tả. Ngoài ra, còn có thêm cả những kiến thức lí thuyết sơ giản giúp học sinh nắm chắc về đặc điểm, kết cấu và phương pháp làm bài của từng kiểu văn miêu tả. Chương trình nhấn mạnh yếu tố thực hành, coi trọng việc rèn luyện kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng xây dựng đoạn văn. Học sinh học cách viết đoạn văn với nhiều nội dung và nhiều kiểu khác nhau ở một số dạng bài văn miêu tả các đối tượng quen thuộc, gần gũi với các em. Với sách hướng dẫn học của chương trình VNEN thì Tập làm văn thường ở nội dung học bài C với các tổ hợp bài tập liên tiếp từ 1 đến 3 tiết học. Đầu bài không thể hiện rõ tên phân môn. 2.2.2. Thực trạng học văn miêu tả của lớp 5 trường Tiểu học Xuân Lâm, năm học 2016-2017. Học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Xuân Lâm điều kiện còn nghèo, chủ yếu là con em nông nghiệp hoặc là công nhân nhà máy giày ARONA, phần lớn, các em chưa thực sự chủ động trong lĩnh hội kiến thức trong quá trình học tập nói chung, trong bài văn cũng ít có sáng tạo. Nhiều khi chưa nắm vững được các kỹ năng cơ bản để làm bài (tìm hiểu đề, quan sát-tìm ý, lập dàn ý, triển khai ý, liên kết ý, liên kết đoạn) dẫn đến nhiều em khi làm bài còn bị lạc đề, các ý trong bài văn miêu tả sắp xếp lộn xộn, không chân thực dẫn đến việc viết những câu văn sáo rỗng, cảm xúc mơ hồ không trung thực. Chẳng hạn với đề bài: Em hãy viết một đoạn tả cảnh sum họp của gia đình em vào buổi tối. Có học sinh của lớp viết như sau:“Ánh đèn của chiếc đèn tuýp chiếu sáng cho cả gian nhà. Em rửa bát xong thì em vào bật vô tuyến. Hôm nay có một bộ phim hoạt hình em rất thích. Trên chiếc ti vi là lọ hoa chị em vừa cắm lúc chiều. Những bông hoa đó đua nhau tỏa hương, thơm nức cả gian phòng. Mấy cái rèm cửa bị gió thổi bay lên. Buối tối, đứng ở bên ngoài trông ngôi nhà thật là đẹp, lại còn có cả những tiếng gió thổi vi vu làm em cảm thấy dễ chịu hẳn”. - Khi miêu tả học sinh không biết chọn lọc những nét tiêu biểu để tả, để kể nên bài văn miêu tả trở thành một bài văn kể lể, liệt kê lan man. Chẳng hạn với đề bài: Trong các buổi lao động tập thể do trường, lớp (hoặc khu phố, thôn xóm) tổ chức, em thấy buổi nào gây cho em nhiều hứng thú nhất. Em hãy viết một đoạn tả lại cảnh tượng mọi người đang lao động trong buổi đó. Thì các em: Lê Thế Anh, Hoàng Đình Dũng, Đặng Duy Hiếu, Trần Tiến Mạnh lại sa vào việc liệt kê các công việc. Chẳng hạn, em Mạnh viết:“Tổ một, hai đi quét dọn vệ sinh sân trường, chăm sóc cây. Tổ ba, bốn trực nhật lớp. Tổ ba, bốn chúng em giặt giẻ lau, kê bàn ghế, quét lớp từng nhát một và lau bảng thật sạch sẽ”. - Đối với loại lỗi viết câu lặp từ, lặp ý học sinh cũng mắc rất nhiều. Đây là loại lỗi phổ biến nhất, hầu như có trong bất kỳ một bài văn miêu tả nào của học sinh lớp. Chẳng hạn: “Năm nay Hà vừa tròn mười tuổi, Hà dong dỏng cao. Da Hà trắng và rất mịn. Mái tóc Hà dài, đen nhánh. Khuôn mặt Hà có hình trái xoan.” “Nhìn từ xa cây to và cao, cây đứng cao và to”.v.v... - Ngoài ra học sinh làm bài văn không biết cách tách đoạn. Các em quan niệm phần mở bài, thân bài, kết bài là ba đoạn. còn phần thân bài dù có bao nhiêu ý thì cũng chỉ được các em viết thành một đoạn văn. Do đó trường hợp dung lượng đoạn quá khổ (lỗi về hình thức) là lỗi phổ biến trong bài văn của học sinh của lớp. Sau đây là kết quả khảo sát kĩ năng viết đoạn văn phần thân bài: Viết một đoạn văn tả buổi sáng trên cánh đồng làng quê em - Bài tập 2, Bài 1C- sách HDH Tiếng Việt 5, tập 1A (trang 19). Số HS Viết đoạn văn hay Viết đúng đoạn văn Viết đoạn văn lủng củng Viết chưa HT đoạn văn SL % SL % SL % SL % 25 3 12 9 36 8 32 5 20 Như vậy: Tỉ lệ học sinh viết được đoạn văn đang ở mức độ thấp. Sau 2 năm nghiên cứu, trải nghiệm, năm học 2015 – 2016 và 2016 – 2017, tôi mạnh dạn đề xuất với nhà trường cho áp dụng đối với học sinh lớp 5, nhằm giúp các em viết tốt đoạn văn miêu tả theo biện pháp mô hình trường học mới và bước đầu có kết quả khá khả quan. 2.3. Các giải pháp thực hiện. 2.3.1. Phân loại đối tượng học sinh phù hợp, chú ý nhiều đến đối tượng học sinh chưa hoàn thành về viết đoạn văn. Ngay từ đầu năm học tôi chia các đối tượng học sinh theo nhóm học tập. Ở mô hình trường học mới VNEN đang thực nghiệm thì điều này rất thuận lợi bởi các em luôn được học tập theo nhóm qua 10 bước học tập. Tuy nhiên, nếu không thay đổi linh hoạt vai trò của từng thành viên trong nhóm sẽ dẫn đến việc chỉ có nhóm trưởng điều hành và hỗ trợ những bạn năng lực còn hạn chế. Bạn ít nói sẽ luôn ỷ lại và không độc lập tư duy, tự ra quyết định cho chính mình. Ý thức được điều đó nên tôi đã chủ động đổi vai trò của các em trong nhóm hàng tuần. Chú ý quan tâm đặc biệt đến đối tượng học sinh chưa viết được đoạn văn, nên phân tích cặn kẽ từng yêu cầu đề, chỉ cần các em viết được đoạn văn đơn giản rồi dần dần nâng cao và phải cổ vũ động viên học sinh kịp thời. Ví dụ: Với đề bài: Em hãy viết đoạn mở bài tả lại người thân yêu nhất của em. Yêu cầu học sinh chưa hoàn thành chỉ cần viết được đoạn mở bài trực tiếp. Với đối tượng học sinh còn lại thì tùy mức độ mà yêu cầu các em viết đoạn mở bài gián tiếp. Nhóm 1: Tôi cho em Phạm Tiến Dũng ngồi cùng nhóm với em Lê Thế Đại là những học sinh rụt rè, thiếu tự tin. Sau 1 tuần các em phải học tập nhóm trưởng để tuần sau sẽ thay các bạn đó điều hành nhóm mình trong một số hoạt động học. Nhóm 2: Các em Lê Chí Kiên, Nguyễn Ngọc Ánh, Trần Thị Minh, Phạm Văn Long biết cách dùng từ nhưng không biết sử dụng các biện pháp tu từ để làm cho câu văn hay hơn. Tôi chia vào nhóm đó bạn Nguyễn Tuấn Dũng viết văn tốt để giúp đỡ các bạn. Cứ như vậy, hết một tuần tôi cho các em đổi vai trò của nhau, mỗi nhóm học đều có tất cả các đối tượng để giúp nhau cùng tiến bộ trong việc viết đoạn văn. 2.3.2 Hướng dẫn học sinh biết cách nắm yêu cầu đề bài và quan sát, tìm ý. Thể loại văn miêu tả có vị trí rất quan trọng trong phân môn Tập làm văn ở Tiểu học. Cần phải cung cấp hệ thống lí thuyết về các thể loại cũng như các kiểu bài cùng với những yêu cầu trong việc hình thành các kỹ năng, để từ đó hướng dẫn học sinh từng bước nắm vững kiến thức và thành thạo các phương pháp xây dựng bài văn theo thể loại, yêu cầu. Mỗi đề bài văn tả cảnh đều có yêu cầu khác nhau, quan sát, tìm ý là một hoạt động không thể thiếu trong việc dạy- học văn miêu tả nên trong quá trình dạy các tiết quan sát-tìm ý, giáo viên cần tổ chức cho học sinh được trực tiếp quan sát sự vật, sự việcđể các em có điều kiện quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, tránh để tình trạng các em ngồi tưởng tượng để viết bài. Khi viết đoạn văn miêu tả thì học sinh phải có yếu tố tưởng tượng nhưng phải bắt nguồn từ thực tế nên hình ảnh được miêu tả phải có tính chân thực, bắt đầu bằng sự quan sát, không tô hồng, bóp méo hoặc hư cấu quá. Giáo viên cần giúp học sinh quan sát với những hình ảnh khác nhau. Góc nhìn của trẻ thơ khác với người lớn, của nông thôn khác với thành thị. Học sinh quan sát kết hợp bằng nhiều giác quan. Ví dụ: Hướng dẫn các em quan sát, viết đoạn văn: “Tả cảnh một buổi sáng trên cánh đồng quê em”, Giáo viên giúp các em quan sát: - Quan sát bằng thị giác: Ánh nắng ban mai, bầu trời, cây cối xung quanh - Bằng thính giác: Tiếng giói thổi, chim hót, tiếng người. - Bằng khứu giác: Mùi của hương lúa, hoa, cỏ dại. - Quan sát từ những hình ảnh quen thuộc, quan sát cả bên ngoài lẫn bên trong để đoạn văn miêu tả sinh động, cuốn hút người nghe. Quan trọng hơn sau khi quan sát các em phải biết lựa chọn không viết lan man, khô khan và sáo rỗng. Học sinh đang quan sát cánh đồng lúa quê em. Học sinh quan sát quang cảnh trường em. Bên cạnh việc quan sát, cần dạy cho học sinh các thao tác liên hoàn khi làm một đoạn văn: Đọc kĩ đề - gạch chân các từ quan trọng - tìm ý - lập dàn ý - dựa trên dàn ý viết thành đoạn văn và cuối cùng là đọc lại, tự kiểm tra. Dạy học trên lớp học sinh chỉ được quan sát với giác quan chủ yếu là thị giác vì vậy học sinh thường không thể hiện được đầy đủ đặc điểm của đối tượng cần tả Đôi khi giáo viên còn lúng túng khi hướng dẫn quan sát như thế nào cho tốt. Để khắc phục điều này, tôi luôn giúp học sinh có thể quan sát, tìm ý, nói đoạn văn bằng các tiết học ngoài trời, thực tế. Sau khi áp dụng đã đem lại sự sôi nổi, hào hứng và kết quả rõ rệt. Xây dựng quy trình rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn miêu tả. Để viết một đoạn văn miêu tả hoàn chỉnh, học sinh phải trải qua quá trình luyện tập về khả năng quan sát, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, chọn và sử dụng các phương tiện lên kết câu. Nếu một trong những kĩ năng bị khiếm khuyết sẽ dẫn đến việc viết đoạn văn miêu tả không tốt và ảnh hưởng nhiều đến khả năng hình thành ngôn ngữ cho học sinh sau này. Vì vậy, việc giáo viên phải dạy đúng quy trình viết đoạn văn ở mỗi kiểu bài thật cần thiết vì nó vừa giúp học sinh viết tốt đoạn văn, vừa giúp học sinh rèn các kĩ năng bộ phận trong quá trình sản sinh văn bản. Quy trình viết đoạn văn miêu tả được thực hiện qua các bước sau: Bước 1: Tìm hiểu yêu cầu của đề bài Bước 2: Hướng dẫn học sinh thực hiện yêu cầu đề bài. Bước 3: Học sinh thực hành kĩ năng Khi thực hành kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tuân theo 3 thao tác sau: viết nháp; đọc, hội ý, sửa chữa văn bản nháp; trình bày bài viết. Bước 4: Đánh giá, nhận xét kết quả thực hành Các bước của quy trình được tôi minh họa cụ thể qua ví dụ sau: Đề bài: Dựa theo dàn ý đã lập ở bài 13B, phần Hoạt động thực hành 4, để viết đoạn văn tả ngoại hình của một người mà em thường gặp. (Bài 13C-tiết 2, trang 57, tập 1B Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5) Bước 1: Tìm hiểu yêu cầu của đề bài - Đọc to yêu cầu đề bài. - Xác định yêu cầu đề bài: Đoạn văn này viết cho ai đọc? Đề bài thuộc thể loại nào? Đối tượng miêu tả của đoạn văn cần viết là gì? Đoạn văn sẽ tập trung miêu tả những đặc điểm chủ yếu nào của đối tượng? Đoạn văn được viết thuộc phần nào của bài văn miêu tả? - Gạch chân dưới những từ ngữ quan trọng của yêu cầu đề bài: Em hãy viết đoạn văn tả ngoại hình của một người mà em thường gặp. Bước 2: Thực hiện yêu cầu của đề bài * Quan sát, tìm ý (Dựa theo dàn ý mà em đã lập trong bài trước) - Cần lựa chọn những đặc điểm ngoại hình tiêu biểu nào? (mái tóc, đôi mắt,..) - Nên lựa chọn các chi tiết thế nào để tả đúng những đặc điểm ấy? - Yêu cầu học sinh xem lại dàn ý đã chuẩn bị hoặc đổi kết quả dàn ý với bạn. * Hướng dẫn học sinh xác định mô hình đoạn văn cho phù hợp. - Giáo viên giới thiệu mô hình cấu trúc câu chủ đề của đoạn văn qua việc phân tích một số ví dụ tả người. - Yêu cầu học sinh lựa chọn một mô hình viết đoạn văn tương ứng cho đoạn thân bài tả hình dáng của người. Bước 3: Học sinh thực hành kĩ năng - Học sinh sắp xếp ý, sử dụng các biện pháp nghệ thuật, lựa chọn hình ảnh phù hợp, các phép liên kết câu để viết đoạn văn theo mô hình đã lựa chọn. - Học sinh đọc lại bài và trao đổi với bạn kế bên, góp ý để sửa đoạn văn về nội dung, chính tả, từ ngữ liên kết câu, ý trong đoạn. - Học sinh viết lại đoạn văn vào vở hoặc giấy. Bước 4: Đánh giá, nhận xét kết quả thực hành - Giáo viên chấm một số bài, góp ý cách viết đoạn, dùng từ, liên kết câu. - Giáo viên nhắc lại tiêu chuẩn đánh giá, nhận xét về hình thức và nội dung. - Học sinh thảo luận theo nhóm trình bày đoạn văn trong nhóm. - Nhóm nhận xét, sửa chữa, lựa chọn đoạn văn hay để trình bày trước lớp. - Đại diện nhóm trình bày đoạn văn trước lớp. Học sinh nhận xét đoạn văn của bạn theo các tiêu chí đã được đưa ra. - Giáo viên chốt các ý nhận xét, giúp học sinh sửa chữa những thiếu sót, lỗi sai hoặc lưu ý các em cách sửa chữa những lỗi thường gặp trong quá trình viết đoạn văn. Sau đó giáo viên cần giúp các em thâu tóm được kiến thức và biết tác dụng của bài tập này là gì. Dưới đây là một đoạn văn của học sinh lớp tôi khi thực hiện đề bài trên: 2.3.4. Giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ và các biện pháp tu từ: 2.3.4.1. Giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ thích hợp trong câu văn. Từ thực tế là vốn từ ngữ của các em quá nghèo nàn nên việc giúp các em có vốn và biết sử dụng từ ngữ để miêu tả là yếu tố rất quan trọng. Học sinh phải biết làm giàu vốn từ và biết vận dụng vào viết đoạn văn như: - Sử dụng các lớp từ: Tính từ, từ tượng thanh, tượng hình, từ láytừ các từ chỉ màu sắc: xanh, đỏ, tímcó thể thể hiện bằng các gam màu khác nhau, cung bậc khác nhau giúp hình ảnh miêu tả thêm phong phú, giàu chất văn: Ví dụ: Từ ‘Thơm” có thể diễn tả mùi thơm khi miêu tả các loài hoa. - Thơm lừng: Mùi thơm tỏa ra mạnh mẽ và rộng. - Thơm ngát: Mùi thơm dễ chịu, lan tỏa ra xa. - Thơm nức: Thơm rực lên, tỏa hương nồng khắp nơi. - Thơm thoang thoảng: Thoảng nhẹ qua, chỉ đủ cảm nhận. 2.3.4.2. Bài tập rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu trong đoạn văn. Ở loại bài tập này, tôi chia thành các dạng bài tập đi từ mức độ thấp đến cao. a. Bài tập yêu cầu nhận diện từ ngữ miêu tả. Mục đích của dạng bài tập này là cung cấp, mở rộng thêm một số vốn từ miêu tả cho học sinh. Dữ kiện của bài tập là các đoạn văn miêu tả các sự vật gần gũi với cuộc sống của các em cũng như phù hợp với chương trình văn miêu tả. lệnh của bài tập yêu cầu của học sinh tìm và gạch dưới các từ ngữ miêu tả quan trọng, nổi bật hoặc nêu được những tác dụng của chúng trong đoạn. Ví dụ: Đọc đoạn văn sau và thực hiện yêu cầu bên dưới. Chú bé vùng biển Thằng Thắng, con cá vược của thôn Bần và là địch thủ bơi lội đáng gờm nhất của bọn trẻ, lúc này đang ngồi trên chiếc thuyền đậu ở ngoài cùng. Nó trạc tuổi thằng Chân “phệ” nhưng cao hơn hẳn cái đầu. Nó cởi trần, phơi nước da rám đỏ khỏe mạnh của những đứa trẻ lớn lên với nắng, gió mặn và nước biển. Thân hình nó rắn chắc, nở nang: cổ mập, vai rộng, ngực nở căng, bụng thon hằn rõ những múi, hai cánh tay gân guốc như hai cái bơi chèo, cặp đùi dế to, chắc nình nịch. Thắng có cặp mắt to và sáng. Miệng tươi, hay cười. Cái trán hơi dô ra, trông có vẻ là một tay bướng bỉnh và gan dạ. (Bài 13B-tiết2, trang 5, tập 1B sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5) 1. Ghi lại những từ ngữ tả ngoại hình của Thắng. 2. Cách sử dụng từ ngữ trong đoạn văn cho biết Thắng là cậu bé như thế nào? b. Bài tập điền các từ ngữ miêu tả. Mục đích của dạng bài tập này nhằm giúp học sinh dùng các từ ngữ miêu tả chính xác, có hiệu quả dựa trên những hiểu biết về ngữ nghĩa, về cấu tạo cũng như khả năng kết hợp của chúng trong câu. Dữ kiện là các đoạn văn đã được lược bỏ các từ ngữ miêu tả hoặc đoạn văn gồm các câu văn miêu tả chưa hoàn chỉnh. Lệnh của bài tập được nâng cao dần từ việc lựa chọn từ ngữ cho sẵn rồi đến tự tìm từ ngữ hợp lí điền vào ch
Tài liệu đính kèm:
- mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_5_viet_tot_doan_van_mie.doc