Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 4 trường tiểu học Thạch Quảng 2

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 4 trường tiểu học Thạch Quảng 2

Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta. Tiếng Việt có vai trò đặc biệt quan trọng trong cộng đồng người Việt Nam. Trong cuộc sống, Tiếng Việt là vốn ngôn ngữ phát triển toàn diện nhất, có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu về giao tiếp trong xã hội. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt chính là góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

Ở tường Tiểu học việc dạy cho các em biết Tiếng Việt, hiểu Tiếng Việt, biết sử dụng Tiếng Việt và giỏi Tiếng Việt là vô cùng cần thiết đối với mỗi giáo viên trực tiếp đứng lớp.

Có thể nói môn Tiếng Việt trong chương trình bậc Tiểu học giúp học sinh biết đọc thông viết thạo, biết sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác và có kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Những kiến thức của môn Tiếng Việt là tiền đề là cơ sở cho học sinh tiếp cận với các môn học khác. Việc dạy và học môn Tiếng Việt trong nhà trường luôn được chú trọng ngay từ lớp đầu cấp. Đặc biệt trong bộ môn Tiếng Việt là phân môn Luyện từ và câu có một vị trí rất quan trọng, là chìa khoá mở ra kho tàng văn hoá trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người. Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói - viết), kĩ năng đọc cho học sinh. Mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 là giúp học sinh:

- Một là: “Mở rộng, hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu”. [1]

- Hai là: “Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.” [2]

- Ba là: “Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng và nói thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp”. [3]

Trường Tiểu học Thạch Quảng 2 là một trường vùng cao trong huyện, học sinh thuộc đồng bào dân tộc Mường chiếm gần 50%. Qua thực tế dạy học Lớp 4 nhiều năm liền, tôi thường nhận thấy tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc sử dụng vốn từ trong học tập và trong giao tiếp của các em còn nhiều hạn chế. Các em gặp khó khăn để nắm được kiến thức khi giáo viên hướng dẫn và càng khó khắc sâu mạch kiến thức đó. Không chuyển thành kĩ năng, kĩ xảo trong cuộc sống và trong giao tiếp. Suy nghĩ, trăn trở “làm thế nào cho học sinh yêu thích Tiếng Việt, yêu thích phân môn Luyện từ và câu? Cần làm gì để các em có thể hiểu và học tốt Luyện từ và câu?”. Xuất phát từ nhận thức trên, trong quá trình dạy học tôi đã áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, kết quả chất lượng được tăng lên rõ rệt. Do đó tôi xin được chia sẻ những kinh nghiệm nhỏ qua sáng kiến "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 trường Tiểu học Thạch Quảng 2".

 

doc 21 trang thuychi01 29741
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 4 trường tiểu học Thạch Quảng 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT THẠCH THÀNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4 
TRƯỜNG TIỂU HỌC THẠCH QUẢNG 2
Người thực hiện: Đặng Thị Loan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thạch Quảng 2,
 Thạch Thành, Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng việt
THẠCH THÀNH, NĂM 2017
 MỤC LỤC
TT
 NỘI DUNG
Trang
1
1. MỞ ĐẦU
1
2
1.1. Lý do chọn đề tài
1
3
1.2. Mục đích nghiên cứu.
2
4
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
5
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2
6
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
7
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
2
8
2.1.1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu.
2
9
2.1.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu
3
10
2.1.3. Xét về tâm lý lứa tuổi
3
11
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
4
12
2.2.1. Thực trạng của việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu Lớp 4 Trường tiểu học Thạch Quảng 2
4
13
2.2.2. Kết quả của thực trạng
5
14
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
7
15
2.3.1. Các giải pháp thực hiện ở lớp 4A
7
16
2.3.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện ở lớp 4A
7
17
2.3.2.1. Khơi gợi sự tò mò, nuôi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh.
7
18
2.3.2.2. Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu
8
19
2.3.2.3. Phân loại đối tượng học sinh để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
9
20
2.3.2.4. Phân loại bài tập và giúp học sinh lớp 4 trường Tiểu học Thạch Quảng 2 làm tốt đối với mỗi dạng bài trong phân môn Luyện từ và câu lớp 4. 
9
21
2.3.2.5. Giáo viên thực hiện tốt thông tư 22 trong đánh giá
15
22
2.3.2.6. Đề xuất với nhà trường tổ chức các buổi giao lưu, hoạt động ngoài giờ lên lớp. 
16
23
2.3.2.7. Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn khác và phụ huynh học sinh.
18
24
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
19
25
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19
26
3.1. Kết luận
19
27
3.2. Kiến nghị
20
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta. Tiếng Việt có vai trò đặc biệt quan trọng trong cộng đồng người Việt Nam. Trong cuộc sống, Tiếng Việt là vốn ngôn ngữ phát triển toàn diện nhất, có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu về giao tiếp trong xã hội. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt chính là góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Ở tường Tiểu học việc dạy cho các em biết Tiếng Việt, hiểu Tiếng Việt, biết sử dụng Tiếng Việt và giỏi Tiếng Việt là vô cùng cần thiết đối với mỗi giáo viên trực tiếp đứng lớp. 
Có thể nói môn Tiếng Việt trong chương trình bậc Tiểu học giúp học sinh biết đọc thông viết thạo, biết sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác và có kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Những kiến thức của môn Tiếng Việt là tiền đề là cơ sở cho học sinh tiếp cận với các môn học khác. Việc dạy và học môn Tiếng Việt trong nhà trường luôn được chú trọng ngay từ lớp đầu cấp. Đặc biệt trong bộ môn Tiếng Việt là phân môn Luyện từ và câu có một vị trí rất quan trọng, là chìa khoá mở ra kho tàng văn hoá trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người. Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói - viết), kĩ năng đọc cho học sinh. Mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 là giúp học sinh:
- Một là: “Mở rộng, hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu”. [1]
- Hai là: “Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.” [2]
- Ba là: “Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng và nói thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp”. [3]
Trường Tiểu học Thạch Quảng 2 là một trường vùng cao trong huyện, học sinh thuộc đồng bào dân tộc Mường chiếm gần 50%. Qua thực tế dạy học Lớp 4 nhiều năm liền, tôi thường nhận thấy tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc sử dụng vốn từ trong học tập và trong giao tiếp của các em còn nhiều hạn chế. Các em gặp khó khăn để nắm được kiến thức khi giáo viên hướng dẫn và càng khó khắc sâu mạch kiến thức đó. Không chuyển thành kĩ năng, kĩ xảo trong cuộc sống và trong giao tiếp. Suy nghĩ, trăn trở “làm thế nào cho học sinh yêu thích Tiếng Việt, yêu thích phân môn Luyện từ và câu? Cần làm gì để các em có thể hiểu và học tốt Luyện từ và câu?”. Xuất phát từ nhận thức trên, trong quá trình dạy học tôi đã áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, kết quả chất lượng được tăng lên rõ rệt. Do đó tôi xin được chia sẻ những kinh nghiệm nhỏ qua sáng kiến "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 trường Tiểu học Thạch Quảng 2".
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm ra một số giải pháp hợp lý nhất trong quá trình dạy học các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4. Hướng dẫn, rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh hiệu quả nhất. Góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Với đề tài này tôi muốn tập trung nghiên cứu một số biện giúp học sinh lớp 4 trường Tiểu học Thạch Quảng 2 làm tốt một số dạng bài tập Luyện từ và câu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí luận. 
1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
1.4.3. Phương pháp thực nghiệm. 
1.4.4. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
1.4.5. Phương pháp phân tích đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 
2.1.1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu.
“Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mĩ. Các kỹ năng cơ bản góp phần hình thình nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm của người công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học THCS” [4]
Phân môn Luyện từ và câu là một môn học giữ vị trí quan trọng trong chương trình Tiếng Việt lớp 4. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học sinh đã được làm quen với lý thuyết của từ và câu. Sau đó chương trình được mở rộng thêm và nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống của các em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp. Chính vì vậy, dạy Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng, không có vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ để biến nó thành một phương pháp giao tiếp. Việc dạy từ và câu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập phát triển toàn diện. Khả năng giáo dục nhiều mặt của Luyện từ và câu là rất to lớn. Nó có nhiều khả năng để phát triển ngôn ngữ, tư duy logíc và các năng lực trí tuệ như trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích tổng hợp... và các phẩm chất đạo đức như tính cẩn thận, cần cù. Ngoài ra phân môn Luyện từ và câu còn có vai trò hướng dẫn cho học sinh kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác trong tất cả các cấp học sau cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói, viết đúng, chính xác. Từ đó sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học, giao tiếp và lao động.
Ngoài ra, nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học được xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn. Như vậy phân môn Luyện từ và câu có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh.
2.1.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu.
“Dạy phân môn Luyện từ và câu ở trường Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng có nhiệm vụ cung cấp cho các em một số kiến thức cơ bản ban đầu và cần thiết về từ, câu, các kiểu từ, các kiểu câu...nhưng phải vừa sức đối với lứa tuổi các em. Dạy Luyện từ và câu có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số hệ thống khái niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và những quy luật của nó’’[5]. Cụ thể là Luyện từ và câu ở tiểu học giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và câu. Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ Luyện từ và câu: Biết dùng từ, câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận ra những từ và câu không đúng, không phù hợp để loại ra khỏi vốn từ, ngoài ra học sinh còn nắm được văn hoá chuẩn của lời nói.
Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn rèn cho học sinh khả năng tư duy logic cao, khả năng nhìn nhận đánh giá sự vật xung quanh chính xác và khả năng thẩm mĩ. Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ (phong phú hoá vốn từ), nắm được nghĩa của từ (chính xác hoá vốn từ), quản lí phân loại vốn từ (hệ thống hoá vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực hoá vốn từ.
Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm được cấu tạo từ và mở rộng vốn từ, giải nghĩa từ, nắm được các kiểu câu, các dấu câu (dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn), biết cách sử dụng từ và câu phù hợp với ngữ cảnh và lời nói. 
2.1.3. Đặc điểm tâm lý của trẻ tiểu học.
“Đối với trẻ em ở lứa tuổi tiểu học thì tri giác của học sinh tiểu học phản ánh những thuộc tính trực quan, cụ thể của sự vật, hiện tượng và xảy ra khi chúng trực tiếp tác động lên giác quan. Tri giác giúp cho trẻ định hướng nhanh chóng và chính xác hơn trong thế giới. Tri giác còn giúp cho trẻ điều chỉnh hoạt động một cách hợp lý. Trong sự phát triển tri giác của học sinh, giáo viên tiểu học có vai trò rất lớn trong việc chỉ dạy cách nhìn, hình thành kỹ năng nhìn cho học sinh, hướng dẫn các em biết xem xét, biết lắng nghe” [6].
Ở lứa tuổi này trí tuệ của các em được phát triển nhờ sự đối hoại giữa chủ thể với đối tượng và môi trường. Vì ở lứa tuổi của các em: nghe thì quên, nhìn thì nhớ, làm thì hiểu. Vừa chơi, vừa học các em lại thấy thoải mái hơn, hiệu quả hơn. Đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số còn được thể hiện ở tư duy ngôn ngữ, logíc dừng lại ở mức độ trực quan cụ thể. Hứng thú là một khâu quan trọng, là một hiện tượng trong tâm lý đời sống mỗi người. Hứng thú tạo điều kiện cho con người học tập lao động được tốt hơn. Nhà văn M.Goóc ki nói "Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc". Việc bồi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt - Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 là một việc làm cần thiết.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng của việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu Lớp 4 Trường tiểu học Thạch Quảng 2.
2.2.1.1. Đối với nhà trường:
Nhà trường luôn quan tâm về chất lượng giáo dục và các phong trào hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ, kể chuyện. Nhưng bên cạnh đó tôi còn nhận thấy:
- Nhà trường chỉ đạo công tác chuyên môn xây dựng nội dung các buổi sinh hoạt chuyên môn còn chưa quan tâm đến phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu. Sinh hoạt tổ còn chưa có chuyên đề Luyện từ và câu lớp 4.
- Chưa chú trọng xây dựng giờ dạy minh họa về phân môn Luyện từ và câu để giáo viên được góp ý, xây dựng tiết dạy,trao đổi học hỏi đồng nghiệp.
- Đối với môn tiếng Việt, ngoài các tiết dạy học ở buổi chính khóa, nhà trường còn bố trí cho học sinh được học ở buổi hai (trong đó giáo viên dành 1tiết cho Luyện từ và câu). Như vậy, thời gian còn hạn chế để học sinh thực hành ôn tập thêm các bài tập và củng cố kiến thức về Luyện từ và câu.
2.2.1.2. Đối với giáo viên: 
- Hầu hết giáo viên chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn Luyện từ và câu nên chưa dành nhiều thời gian để nghiên cứu phân môn này. 
- Thực tế khi giảng dạy nhiều giáo viên còn chưa nghiên cứu kỹ, sử dụng phương pháp dạy học chưa linh hoạt. Phân môn Luyện từ và câu là phần kiến thức khó nên giáo viên đôi khi còn lúng túng và gặp khó khăn trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập. Đôi lúc giáo viên còn máy móc, phụ thuộc vào SGV, vào đáp án, gợi ý. Chưa linh hoạt sử dụng phương pháp trong dạy học phù hợp với đối tượng, phân chia thời lượng còn không đảm bảo, hoạt động cô trò còn thiếu nhịp nhàng, mang tính hình thức. 
- Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. Giáo viên còn chưa thật sự quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt
2.2.1.3. Đối với học sinh:
- Học sinh đa số là học sinh dân tộc thiểu số. Mức độ hiểu sâu về từ ngữ chưa có, chưa biết sử dụng từ hợp lí. Thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ nhiều. Vốn ngôn ngữ còn hạn chế.
- Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó việc nhận diện phân loại, việc xác định câu, từ còn nhầm lẫn, xác định hướng làm bài lệch lạc. Học sinh chưa chú trọng khi học Luyện từ và câu, chưa hứng thú với phân môn này. Một số ít đối tượng học sinh ngại học phân môn này.
- Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
- Học sinh thường nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động nên chưa áp dụng kiến thức đã học vào thực tế giao tiếp hằng ngày. 
2.2.2. Kết quả của thực trạng.
a. Kết quả khảo sát như sau:
Từ thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường xin được khảo sát chất lượng phân môn Luyện từ và câu khối lớp 4 gồm lớp 4A và lớp 4B (trong đó lớp 4A trực tiếp tôi giảng dạy) được nhà trường nhất trí. Tôi đã tiến hành cho hai lớp 4 làm bài khảo sát vào chiều thứ 6 ngày 23 tháng 9 năm 2016 (Đề bài có phụ lục kèm theo). 
Kết quả thu được như sau:
Lớp
Số học sinh
Tốt
Đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu cầu
SL
TL%
 SL
 TL%
SL
 TL%
4A
30
2
6.6
 19
 63.3
 9
 30.1
4B
28
1
3.6
 21
 75.0
 6
 21.4
Qua bảng số liệu và qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nhiều nguyên nhân và lỗi học sinh thường mắc ở mỗi dạng bài cũng khác nhau. Do đó tôi thường theo dõi, kiểm tra bài để tìm lỗi sai của học sinh, tìm phương pháp giảng dạy phù hợp.
b. Các lỗi học sinh thường mắc ở mỗi dạng bài cụ thể:
Trong quá trình trực tiếp dạy Luyện từ và câu ở lớp 4A năm học 2016 - 2017 tôi đã thống kê được một số lỗi sai điển hình ở mỗi dạng bài như sau:
Dạng 1: Bài tập mở rộng vốn từ.
Vốn từ của học sinh còn hạn chế, chưa hiểu nghĩa của từ nên còn dùng từ sai, bí từ khi đặt câu. 
Dạng 2: Bài tập về Tìm từ ghép, từ láy.
Học sinh còn nhầm lẫn giữa từ ghép và từ láy. Ngoài những học sinh không nắm được khái niệm về từ láy thì còn có học sinh tìm từ láy chỉ dựa vào hình thức, không căn cứ vào nghĩa của từ. Dưới đây là một số lỗi điển hình của bài làm học sinh của lớp tôi:
 Bài của học sinh : Nguyễn Thị Hoài 
Dạng 3: Bài tập xác định từ loại: danh từ, động từ, tính từ .
Ngoài một số ít học sinh làm sai do không nắm được khái niệm về mỗi từ loại thì học sinh còn thường làm sai do không phân biệt được các tiểu từ loại. (Danh từ: Danh từ chỉ người, chỉ vật, chỉ hiện tượng, chỉ khái niệm, chỉ đơn vị). Cụ thể lỗi điển hình của học sinh trong lớp:
Bài của học sinh : Nguyễn Đình Thành Bài của học sinh : Bùi Thị Kim Ngân
Dạng 4: Bài tập xác định các kiểu câu.
 Học sinh thường mắc về viết câu, sử dụng chấm câu chưa đúng, không sử dụng dấu chấm câu, chưa đọc kỹ đề bài, không hiểu yêu cầu, dẫn đến viết sai mục đích câu. Đây là hình ảnh lỗi sai điển hình cụ thể của học sinh lớp 4A. 
Bài của học sinh : Bùi Thị Kim Huệ Bài của học sinh : Bùi Thị Ngọc Mai
Bảng thống kê số lượng học sinh mắc lỗi ở lớp 4 A qua quá trình học với từng nội dung bài cụ thể : (Tổng số học sinh lớp 4A: 30 học sinh) .
Các lỗi sai học sinh thường mắc
Số lượng HS
Tỉ lệ %
Ghi chú 
Dùng từ sai.
6
 20.0
 Có học sinh mắc đến 2,3 lỗi.
Chưa phân biệt được từ loại
5
 16.7
Chưa phân biệt được từ ghép, từ láy
7
 23.3
Chưa xác định được kiểu câu.
3
 10.0
Chưa biết đặt câu, đặt câu sai mục đích
9
 30.0
Xuất phát từ tình hình thực tế và tôi mong muốn thử nghiệm một số biện pháp tổ chức giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4, nên đã đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường xếp thời khóa biểu phân môn Luyện từ và câu của hai lớp 4A và 4B lệch nhau. Tạo đề kiện cho tôi có thời gian dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp (giáo viên dạy lớp 4B) về phương pháp, hình thức dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Các giải pháp thực hiện với học sinh lớp 4 A:
- Khơi gợi sự tò mò, nuôi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh.
- Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu.
- Phân loại đối tượng học sinh để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
- Phân loại dạng bài và giúp học sinh lớp 4A trường Tiểu học Thạch Quảng 2 làm tốt đối với mỗi dạng bài trong phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
- Thực hiện tốt Thông tư 30 và Thông tư 22 sửa đổi, bổ sung Thông tư 30 về đánh giá học sinh tiểu học.
- Đề xuất cho nhà trường tổ chức các buổi giao lưu, hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn và phụ huynh.
2.3.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện ở lớp 4A:
2.3.2.1. Khơi gợi sự tò mò, nuôi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh.
- Tạo hứng thú trong học tập cho học sinh cũng là một nghệ thuật trong quá trình dạy học của người giáo dục. Tạo hấp dẫn cuốn hút học sinh vào hoạt động học và nhất là môn Luyện từ và câu đòi hỏi giáo viên cần có phương pháp và tổ chức phong phú. Giảm bớt sự căng thẳng, nhàm chán.
- Để tạo được sự hứng thú học tập cho các em, tôi luôn tạo được sự thoải mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ đẹp và khả năng kì diệu của ngôn từ, để kích thích vốn từ sẵn có của từng em. Vì vậy tôi luôn biết gây hứng thú học tập cho học sinh sẽ làm cho các em thích thú học tập không còn gây cảm giác khô khan, chán học. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài tôi sử dụng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau (Phương pháp trò chơi, phương pháp động não, phương pháp hỏi đáp) phù hợp với từng dạng bài.
a. Khơi gợi sự tò mò tạo hứng thú từ cách giới thiệu bài.
Để bắt đầu tiết học thật thoải mái tôi thường gợi mở, dẫn dắt cho các em vào vấn đề dễ nhất, hiệu quả nhất, vừa giúp các em nắm vững kiến thức cũng vừa giúp các em không áp dụng máy móc trong thực tế cuộc sống. Tôi đã sử dụng phương pháp hỏi đáp ( Phương pháp nêu vấn đề) khi giới thiệu bài.
Ví dụ: Bài Mở rộng vốn từ : Ý chí – Nghị lực ( TV 4- tuần 12- trang 118)
* Tổ chức thực hiện: Giáo viên giới thiệu bằng cách đặt câu hỏi:
- Đọc bài Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi, các em thấy Bạch Thái Bưởi là người thế nào mà từ hai bàn tay trắng ông đã vượt qua khó khăn để trở thành “anh hùng kinh tế”? ( Học sinh trả lời) Giáo viên hỏi tiếp:
- Vậy theo em Ý chí là gì?, thế nào là nghị lực (HS trả lời)
- Giáo viên giới thiệu: Để giúp các em biết thêm nhiều từ, nắm được nghĩa và cách dùng các từ ngữ ở chủ điểm Ý chí – Nghị lực. Hôm nay chúng ta sẽ mở rộng vốn từ theo chủ điểm này học sinh sẽ dễ dàng hình dung và hiểu được những người có lời nói, cử chỉ, việc làmnhư Bạch Thái Bưởi trong câu chuyện là người giàu ý chí, nghị lực.
b. Khơi hứng thú, thu hút sự chú ý của các em trong thực hành làm bài tập. Để thu hút học sinh vào bài học, ngoài giới thiệu bài thì trong khi tổ chức, hướng dẫn làm bài tập tôi cũng luôn tạo không khí học tập để khơi gợi sự hứng thú đối với học sinh. 
Trò chơi chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn. Tạo cơ hội giao lưu, hợp tác với bạn bè trong nhóm trong tổ. Sử dụng trò chơi trong học tập sẽ đạt được hiệu quả hơn, làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở nên thoải mái dễ chịu. Học sinh tiếp thu bài tự nhiên nhẹ nhàng và hiệu quả. 
Ví dụ: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: Trung thực – Tự trọng, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi "Tìm đúng, gắn nhanh" khi làm bài tập 3.
 (Tiếng việt 4 - tập 1 - trang 63).
* Cách làm lâu nay là: một số giáo viên vẫn thường áp dạng cách dạy máy móc như sách giáo viên là cho học sinh làm việc cá nhân rồi kết luận. 
* Tôi đã thực hiện là: Từ mức độ kiến thức của bài tôi có thể tổ chức được trò chơi. Giúp học sinh có khả năng phân biệt nhanh, rèn tính nhanh nhẹn chính xác, tạo khí thế cho các em. Giáo viên cần chuẩn bị cá

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_luong_day_hoc_phan_mon_l.doc