Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn lịch sử ở lớp 4B trường tiểu học Nga Thiện
Bước sang thế kỉ 21, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức nhanh chóng với những biến đổi liên tục và sự tăng khối lượng tri thức một cách nhanh chóng, đặc biệt trong các lĩnh vực thông tin truyền thông, công nghệ vật liệu, điện/điện tử tự động hóa, phương pháp dạy học tiếp cận nội dung dần trở nên lạc hậu. Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống, vai trò của giáo dục ngày càng trở nên quan trọng. Xu thế thiết kế chương trình theo hướng tiếp cận năng lực được khá nhiều quốc gia quan tâm, vận dụng trong giai đoạn hiện nay. Tiếp cận năng lực chủ trương giúp người học không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác phải gắn với thực tiễn đời sống. Nếu như tiếp cận nội dung chủ yếu yêu cầu người học trả lời câu hỏi: Biết cái gì, thì tiếp cận theo năng lực luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết. Nói cách khác, nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm chứ không chỉ biết và hiểu.[1]
Dạy học phát triển năng lực học sinh là một xu thế tất yếu của giáo dục. Việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân. [1]
Thế nhưng, một thực trạng dau lòng trong nhiều năm vừa qua là chất lượng dạy học luôn thành vấn đề nóng của dư luận, được nhiều báo đài phản ánh trung thực. Đó là tình trạng hầu hết lớp trẻ không nắm được lịch sử dân tộc, nhiều bài thi ở các cấp học, đặc biệt bài thi tốt nghiệp lớp 12 chỉ được điểm 0, điểm 1. Tình trạng này thật đáng báo động khi 9 năm học lịch sử ( từ lớp 4 đến lớp 12) mà các em không nắm được gì, hỏi đến nhân vật lịch sử hay sự kiện nào cũng không biết
Bởi vậy, nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học luôn là một trong những vấn đề quan trọng của tất cả các giáo viên đứng lớp trong đó có giáo viên dạy môn lịch sử. Dạy như thế nào, học như thế nào để đạt được hiệu quả học tập tốt nhất là điều mong muốn của tất cả thầy cô giáo chúng ta. Muốn thế phải đổi mới phương pháp, biện pháp dạy và học. Người giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học sinh từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc giờ học, từ cách ổn định lớp, ôn bài cũ đến cách học bài mới, củng cố, dặn dò. Những hoạt động đó giúp học sinh tái hiện các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử nhằm lĩnh hội kiến thức, bản chất lịch sử một cách tự giác, chủ động, tích cực, sáng tạo và ngày càng yêu thích, say mê môn học.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD & ĐT NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN LỊCH SỬ Ở LỚP 4B TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA THIỆN Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Thiện SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Lịch sử và Địa lí THANH HÓA, NĂM 2019 MỤC LỤC Mở đầu Trang 1 Lí do chọn đề tài 1 Mục đích nghiên cứu 2 Đối tượng nghiên cứu 2 Phương pháp nghiên cứu 2 Nội dung SKKN 3 Cơ sở lí luận 3 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN 4 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 16 Kết luận, kiến nghị 18 Kết luận 18 Kiến nghị 18 Tài liệu tham khảo 20 Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng đánh giá xếp loại cấp phòng Gd & Đt, cấp sở Gd & Đt và các cấp cao hơn xếp loại từ C trở lên 21 Mở đầu Lí do chọn đề tài Bước sang thế kỉ 21, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức nhanh chóng với những biến đổi liên tục và sự tăng khối lượng tri thức một cách nhanh chóng, đặc biệt trong các lĩnh vực thông tin truyền thông, công nghệ vật liệu, điện/điện tử tự động hóa, phương pháp dạy học tiếp cận nội dung dần trở nên lạc hậu. Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống, vai trò của giáo dục ngày càng trở nên quan trọng. Xu thế thiết kế chương trình theo hướng tiếp cận năng lực được khá nhiều quốc gia quan tâm, vận dụng trong giai đoạn hiện nay. Tiếp cận năng lực chủ trương giúp người học không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác phải gắn với thực tiễn đời sống. Nếu như tiếp cận nội dung chủ yếu yêu cầu người học trả lời câu hỏi: Biết cái gì, thì tiếp cận theo năng lực luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết. Nói cách khác, nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm chứ không chỉ biết và hiểu.[1] Dạy học phát triển năng lực học sinh là một xu thế tất yếu của giáo dục. Việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân. [1] Thế nhưng, một thực trạng dau lòng trong nhiều năm vừa qua là chất lượng dạy học luôn thành vấn đề nóng của dư luận, được nhiều báo đài phản ánh trung thực. Đó là tình trạng hầu hết lớp trẻ không nắm được lịch sử dân tộc, nhiều bài thi ở các cấp học, đặc biệt bài thi tốt nghiệp lớp 12 chỉ được điểm 0, điểm 1.. Tình trạng này thật đáng báo động khi 9 năm học lịch sử ( từ lớp 4 đến lớp 12) mà các em không nắm được gì, hỏi đến nhân vật lịch sử hay sự kiện nào cũng không biết Bởi vậy, nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học luôn là một trong những vấn đề quan trọng của tất cả các giáo viên đứng lớp trong đó có giáo viên dạy môn lịch sử. Dạy như thế nào, học như thế nào để đạt được hiệu quả học tập tốt nhất là điều mong muốn của tất cả thầy cô giáo chúng ta. Muốn thế phải đổi mới phương pháp, biện pháp dạy và học. Người giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học sinh từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc giờ học, từ cách ổn định lớp, ôn bài cũ đến cách học bài mới, củng cố, dặn dò. Những hoạt động đó giúp học sinh tái hiện các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử nhằm lĩnh hội kiến thức, bản chất lịch sử một cách tự giác, chủ động, tích cực, sáng tạo và ngày càng yêu thích, say mê môn học. Vậy làm thế nào để phát huy năng lực tái hiện các sự kiện, hiện tượng, nhân vật, lịch sử của học sinh trong dạy- học lịch sử? Để quá trình hoạt động chung, thống nhất giữa thầy và trò nhịp nhàng sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những tri thức lịch sử, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách cho các em là vấn đề được nhiều giáo viên dạy môn Lịch sử hết sức quan tâm và trăn trở.Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo chủ đề định hướng phát triển năng lực cho học sinh nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với tinh thần học hỏi và chia sẻ với các đồng chí, đồng nghiệp. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm ra các giải pháp để khắc phục những tồn tại, tháo gỡ khó khăn giúp học sinh yêu thích và học tốt hơn môn Lịch sử. Đối tượng nghiên cứu Đề tài này nghiên cứu, tổng kết về các giải pháp hiệu quả trong dạy học Lịch sử góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu cơ sở lí luận: Đọc và tìm hiểu các vấn đề lí luận liên quan đến đề tài qua các tài liệu tham khảo - Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh học tập trên lớp qua các buổi học hằng ngày, qua dự giờ đồng nghiệp trong trường. - Phương pháp phỏng vấn: Trực tiếp phỏng vấn giáo viên và học sinh để tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong quá trình dạy và học lịch sử - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Điều tra điều tra khảo sát thực tế qua giáo viên chủ nhiệm và học sinh các lớp 4, lớp 5 - Phương pháp thống kê: Thống kê kết quả học tập của học sinh qua hồ sơ sổ sách, qua tổng hợp số liệu các bài khảo sát. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận Dạy học theo tiếp cận trang bị kiến thức là chú trọng vào việc truyền thụ tri thức khoa học theo các môn học đã được quy định trong chương trình dạy học, chú trọng trang bị cho học sinh hệ thống tri thức khoa học khách quan. Cách dạy này chưa chú trọng vai trò chủ thể của người học và khả năng ứng dụng tri thức đã học vào tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học theo tiếp cận trang bị kiến thức đôi khi không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá một cách cụ thể. Việc quản lí chất lượng giáo dục theo cách này chủ yếu tập trung vào nội dung dạy học. Ưu điểm của dạy học tiếp cận trang bị kiến thức là cho học sinh một hệ thống tri thức khoa học. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển toàn diện phẩm chất người học, chú trọng năng lực vận dụng tri thức vào những tình huống thực tiễn. Trong chương trình dạy học phát triển năng lực, mục tiêu học tập thường được mô tả qua các thuộc tính nhân cách chung và các kết quả yêu cầu cụ thể, hay qua hệ thống các năng lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. Dựa vào kết quả mong muốn ấy, chương trình đưa ra những hướng dẫn về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học. Cách tiếp cận này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức. Việc quản lí chất lượng giáo dục theo định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, là những năng lực mà người học cần có sau quá trình học tập. Ưu điểm của dạy học phát triển năng lực là tạo điều kiện quản lí chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận dụng của học sinh [1] Nghiên cứu dạy học theo định hướng phát triển năng lực tôi thấy cần chú ý hơn một số nguyên tắc sau: - Chương trình lấy việc học làm gốc, lấy người học làm chủ thể của quá trình dạy học. Để thực hiện được việc rèn luyện năng lực, chương trình được đặt trên nền tảng của một nguyên lý là kiến thức phải được học sinh tự kiến tạo, chứ không phải qua con đường chuyển giao, truyền đạt từ giáo viên. Một lẽ rất tự nhiên là không ai học hộ được người khác. Hơn nữa, mọi lý luận dạy học đều thừa nhận một chân lý là người học chính là kiến trúc sư của kiến thức và năng lực của chính mình. Điểm then chốt của đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nước ta, quyết định sự thành bại của công cuộc đổi mới này là chương trình giáo dục phải lấy người học làm gốc, lấy sự học là điểm xuất phát của mọi quyết định.Mỗi học sinh đều có thể được học những gì mình quyết định. Mỗi học sinh đều có thể được học những gì mình muốn, theo cách mình lựa chọn, theo một lộ trình và tùy theo đặc trưng tâm, sinh lý, hoàn cảnh sống của từng người dưới sự hướng dẫn của giáo viên.Cách thiết kế chương trình giáo dục nói chung, các môn học nói riêng, cách thức tổ chức thực hiện chương trình, phương pháp dạy học môn học, cách kiểm tra - đánh giá phải tuân thủ nguyên lý này thì mới có thể tạo ra lớp người có năng lực thực sự, có bản sắc riêng, có hoài bão, có tầm nhìn hướng ra thế giới, làm cơ sở để tạo đào tạo nguồn nhân lực có sức cạnh tranh cao phục vụ cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa. [4] - Kiến thức và năng lực bổ sung cho nhau: Kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, những loại kiến thức khác nhau, tạo nguồn để học sinh có được các giải pháp tối ưu hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. - Chỉ dạy học những vấn đề cốt lõi: Rèn luyện năng lực đòi hỏi phải có đủ thời gian, học sinh phải sử dụng nhiều lần, lặp đi lặp lại mới có thể tăng cường năng lực cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.Nếu chương trình tập trung rèn luyện năng lực thì cũng có nghĩa chỉ nên tập trung vào số lượng năng lực chọn lọc và lượng kiến thức tương ứng để học sinh có đủ thời gian rèn luyện, kiến tạo và phát triển những năng lực đó, không dàn trải như trong chương trình giáo dục hiện nay.Việc lựa chọn cách tiếp cận theo năng lực trong trường phổ thông còn làm hàm ý trong thời gian học tập tại trường, học sinh phải được rèn luyện, kiến tạo những năng lực cho phép họ từ kiến tạo những kiến thức, kĩ năng mới để thích nghi với môi trường sống luôn thay đổi sau này. Đây chính là lý do để xác định là các năng lực xuyên suốt chương trình đào tạo với tư cách là công cụ để học tập suốt đời. - Dạy học tích hợp: Thế giới hiện đại có đặc trưng là sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng trong tất cả các lĩnh vực khoa học và đời sống. Do vậy, mức độ năng lực cần thiết để thích ứng với thực tế đó cũng ngày càng tăng.Và dĩ nhiên là những kiến thức đơn giản đơn lẻ được truyền đạt từ giáo viên không còn phù hợp nữa. Phải học tích hợp, học phương pháp luận, học cách kiến tạo kiến thức để rèn luyện khả năng kết hợp các nguồn kiến thức khác nhau, học sinh mới có khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp trong cuộc sống lao động sau này. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Thực trạng chung hiện nay ta thấy một bộ phận không nhỏ lớp trẻ Việt Nam rất mơ hồ về lịch sử nước nhà trong khi lịch sử Trung Quốc lại khá rõ. Điều đó đã làm đau đầu bao nhà nghiên cứu, làm trăn trở bao nhà giáo dục và làm cả xã hội phải lo lắng cho lớp chủ nhân tương lai của đất nước lớn lên mà không biết đến truyền thống, nguồn gốc dân tộc mình. Việc dạy Lịch sử của giáo viên còn chưa đầu tư, thời lượng lại quá ít mà đôi khi còn bị bớt xén để học các môn Toán, Tiếng Việt vì các kiến thức, kĩ năng các môn đó các em còn yếu. Trong tiết dạy giáo viên không có đủ bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, không có máy chiếu và các phương tiên hỗ trợ nên đa số chỉ “dạy chay”. Mặc dù đa số giáo viên hiện nay đều tâm huyết và có trách nhiệm cao đối với nghề dạy học nhưng khả năng của mỗi người là có hạn và không giống nhau. Một số giáo viên chưa có điều kiện để nắm vững tiến trình lịch sử nước nhà cũng như chương trình Lịch sử 4, 5; chưa có đủ sách vở, đồ dùng, tài liệu và thời gian nghiên cứu, năng lực giảng dạy còn hạn chế, dạy học chưa tập trung phát triển năng lực học sinh nên chưa khơi dậy được hứng thú và nhu cầu học tập cho các em Việc học Lịch sử của học sinh cũng từ đó mà ảnh hưởng rất nhiều. Chương trình Lịch sử được đưa vào dạy ở Tiểu bắt đầu từ lớp 4. Bướclên lớp 4 là học sinh đã bước sang giai đoạn hai của quá trình giáo dục ở Tiểu học, học sinh được làm quen với các môn học mới như Khoa học, Lịch sử và Địa lí nên các em gặp nhiều bỡ ngỡ và khó khăn, đặc biệt với phân môn Lịch sử. Bên cạnh đó, đa số học sinh lớp 4 của trường Tiểu học Nga Thiện đều thuộc con em gia đình làm nghề nông, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ văn hoá thấp, đầu tư cho việc học rất hạn chế Hậu quả là sách vở, đồ dùng học tập của các em thiếu thốn, trong học tập còn nhút nhát, rụt rè, tiếp thu còn chậm và thụ động, thời gian tự học ở nhà quá ít vì các em còn phải tham gia lao động cùng với gia đình. Mà thời lượng dành cho phân môn Lịch sử là còn ít (1 tiết/ tuần) nên học sinh học chưa kịp nhớ đã quên, còn rất mơ hồ về các năm tháng, sự kiện, nhân vật lịch sử. Sau gần 1 tháng tôi tiến hành khảo sát ở hai lớp khối 4 trường Tiểu học Nga Thiện, lớp 4B do tôi chủ nhiệm và thu được kết quả như sau: Lớp 4A (Sĩ số 27) Lớp 4B (Sĩ số 27) Nội dung SL TL (%) SL TL (%) Không có hứng thú với môn học 15 55,6 14 51,9 Có hứng thú, yêu thích môn học 12 45,4 13 48,1 Chưa nắm được các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử 14 51,9 13 48,1 Nắm được các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử 12 45,4 11 40,8 Nắm vững các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử 1 3,7 3 11,1 Từ bảng số liệu trên, tôi tiến hành tìm hiểu nguyên nhân từ nhiều phía và từ kinh nghiệm bản thân dạy học lớp 4 hơn mười năm nay, tôi thấy nguyên nhân chủ yếu là: Giáo viên dạy học chưa thực sự lấy học sinh làm trung tâm, chưa thực sự tập trung phát triển năng lực hoc sinh, chưa khơi gợi được hứng thú học tập cho các em;hầu hết học sinh chưa chăm học, còn xem nhẹ Lịch sử hoặc có học là để đối phó chứ thực sự chưa yêu thích môn học vì chưa ý thức được tầm quan trọng của nó. Hơn nữa, đa số phụ huynh chưa quan tâm mà phó mặc việc học của con em mình cho giáo viên và nhà trường, sách vở không sắm đủ, chưa hỗ trợ con em học ở nhàBởi vậy, học sinh thường xuyên có tình trạng nhầm lẫn kiểu “Râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Trước thực trạng trên, tôi tiến hành đi sâu nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp và áp dụng vào dạy học để giúp đỡ học sinh học tập sao cho hiệu quả nhất. 2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề Trong quá trình giảng dạy ở lớp 4, tôi nhận thấy rằng việc hình thành kiến thức lịch sử để tiến tới phát triển năng lực, bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc cho mỗi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo viên mong muốn. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy lịch sử. Vì vậy tôi đã mạnh dạn áp dụng các giải pháp sau: 2.3.1.Bản thân giáo viên cần không ngừng học tập nâng cao trình độ Để dạy đúng, đủ kiến thức Lịch sử 4, trước hết người giáo viên cần nắm được mục tiêu của chương trình, nội dung chương trình sách giáo khoa và phải nắm được tiến trình lịch sử Việt Nam. Nội dung chương trình sách giáo khoa Lịch sử 4 bao gồm những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu phản ánh những cột mốc đánh dấu sự phát triển của các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước (kinh tế, văn hoá, chính trị) của ông cha ta từ buổi đầu dựng nước và giữ nước đến buổi đầu thời Nguyễn [2]. Vì vậy, người giáo viên muốn dạy hay, dạy giỏi thì còn cần nắm vững chi tiết tiến trình lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước và giữ nước cho tới ngày nay cũng như nắm vững lịch sử nhân loại. Có nắm vững các kiến thức lịch sử thì người giáo viên mới có cái nhìn tổng thể, toàn diện về lịch sử, hiểu được các chặng đường thăng trầm, biến động của đất nước, của thế giới qua các thời kì và có thể lí giải chính xác nhất những băn khoăn, thắc mắc của học sinh. Một điểm quan trọng nữa là người giáo viên phải không ngừng bồi dưỡng chuyên môn nhiệp vụ, tiếp cận, học hỏi, đổi mới các phương pháp dạy học nhằm mục đích tập trung phát triển năng lực người học, đó là cái đích mà mỗi giáo viên cần xác định hướng tới. Để thực hiện tốt các nội dung trên, người giáo viên phải có quá trình học hỏi, tích luỹ lâu dài qua các cấp học, ngành học đã được tham gia, qua các buổi học chuyên đề, luôn luôn tự học tự nghiên cứu, ôn tập bằng nhiều hình thức (tự học, qua sách vở, đài, báo, ti vi, phim ảnh, qua mạng Internet, qua học hỏi cấp trên, đồng nghiệp) 2.3.2.Lựa chọn những phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi dạng bài của chương trình Lịch sử 4phải theo định hướng phát triển năng lực học sinh Trong chương trình Lịch sử 4, qua nghiên cứu tôi thấy để dạy học phát triển năng lực học sinh có thể phân chia các dạng bài học theo một số dạng cơ bản sau: a. Các bài có nội dung về nhân vật lịch sử. * Mục tiêu: Giúp học sinh - Biết và hiểu: Công lao, những đóng góp của một số nhân vật đối với lịch sử dân tộc. - Có khả năng kể lại hoặc mô tả một cách khái quát những đóng góp của các nhân vật lịch sử đã học hoặc sưu tầm những câu chuyện về họ. - Tự hào, ghi nhớ công ơn của các nhân vật lịch sử. * Nội dung: Bao gồm các bài sau: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938); Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân; Quang Trung đại phá quân Thanh ( Năm 1789).[2] * Lựa chọn phương pháp dạy học Chương trình lịch sử Tiểu học không giới thiệu tiểu sử các nhân vật lịch sử, mà thông qua cuộc đời hoạt động và sự nghiệp của nhân vật để làm sáng tỏ những sự kiện cơ bản của lịch sử dân tộc. Ví dụ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước vào năm 968 Như vậy nhân vật lịch sử bao giờ cũng gắn liền với sự kiện lịch sử, giáo viên phải biết khai thác tốt các sự kiện để làm nổi bật những hoạt động và công lao to lớn của nhân vật. Một số điểm cần lưu ý: Mỗi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ, chân dung) nhân vật lịch sử giúp học sinh nắm bắt được diện mạo, hình thức bên ngoài của nhân vật. Giáo viên cần sử dụng và khai thác triệt để những bức ảnh này nhằm phục vụ nội dung bài học. - Khi trình bày về nhân vật, phải cho học sinh biết nhân vật đó là người như thế nào? (Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có tính cách gì nổi bật? Tài năng, đức độ ra sao?....) - Kể chuyện hoặc miêu tả những hoạt động của họ để làm cơ sở cho việc đánh giá khách quan công lao của các nhân vật đối với lịch sử. Khi kể chuyện hay tường thuật, miêu tả tình tiết các hoạt động, có thể kết hợp phân tích để học sinh hiểu hơn nội dung, bản chất sự kiện. - Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, có hiệu quả nhất. Thông thường, đối với dạng bài này phương pháp chủ đạo là kể chuyện, miêu tả, tường thuật kết hợp với hỏi đáp để khắc sâu hình ảnh nhân vật trong tâm trí học sinh [3]. Ví dụ: Khi dạy bài “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938)”: Hoạt động 1: Vài nét về tiểu sử của Ngô Quyền. - Sau khi kết thúc bài học trước, tôi yêu cầu học sinh về nhà tìm hiểu trước bài mới, tìm hiểu trước vài nét tiểu sử Ngô Quyền. Khi vào bài, học sinh sẽ thi nhau nêu hiểu biết của mình về Ngô Quyền và tình hình nước ta lúc bấy giờ. Nếu trường hợp học sinh không kể được, tôi sẽ dẫn dắt, gợi mở cho các em bằng các câu hỏi gợi ý cụ thể hơn.... Hoạt động 2: Diễn biến trận Bạch Đằng - Học sinh dựa vào sách giáo khoa và những hiểu biết của bản thân để trình bày trong nhóm 4 về diễn biến trận đánh. - Trình bày trước lớp: GV trình chiếu lược đồ trận đánh, học sinh các nhóm thi nhau trình bày, các nhóm khác theo dõi, nhận xét - Giáo viên nhận xét, tổng kết và nhấn mạnh kết quả trận đánh. Hoạt động 3: Công lao của vua Ngô Quyền và ý nghĩa trận Bạch Đằng. Tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm đôi để thấy được những đóng góp của Ngô Quyền đối với lịch sử dân tộc, đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa tạo nên bước ngoặt lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng. b. Các bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội. *. Mục tiêu: Học xong loại bài này, học sinh biết và hiểu: - Hoàn cảnh ra đời, địa phận; thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên vua, tên nước, nơi đóng đô, - Hiểu một cách đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước. - Biết được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất; văn hóa tinh thần của con người trong xã hội. Học sinh có kĩ năng: Vẽ hoặc mô tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà nước; So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của các triều đại hoặc c
Tài liệu đính kèm:
- mot_so_giai_phap_gop_phan_nang_cao_chat_luong_day_hoc_phan_m.doc