Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Nga Trung huyện Nga Sơn

Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Nga Trung huyện Nga Sơn

Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt giữ một trong những vị trí quan trọng nhất. Với nhiệm vụ là trang bị cho học sinh những tri thức về hệ thống Tiếng Việt chuẩn mực, rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sử dụng thành thạo Tiếng Việt trong hoạt động tư duy và giao tiếp. Mặt khác, trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt lớp 5 lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản để hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói đọc, viết), để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.

Việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau như Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn. Song khó hơn cả đối với người dạy cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn. Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em.

 Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính của chương trình Tập làm văn lớp 5 là văn miêu tả. Tả cảnh là một dạng bài khó vì học sinh chưa có khả năng quan sát tinh tế, chưa cảm nhận hết được vẻ đẹp của cảnh hay những thay đổi của cảnh theo thời gian, chưa biết dựa vào cảm xúc của mình để miêu tả cho cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn. Vì vậy, làm thế nào để cho học sinh làm văn hay và có hiệu quả là một vấn đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm công tác giáo dục.

Từ thực tế giảng dạy Tập làm văn dạng bài văn tả cảnh, tôi nhận thấy bản thân người giáo viên là người hướng dẫn đôi khi còn có phần lúng túng, bí từ và không biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết được bài văn hay, có hình ảnh, có cảm xúc. Một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn mà không có một sự hướng dẫn cụ thể nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh. Vì thể đòi hỏi ở người thầy phải có cái tâm, cái tài để truyền cho các em nguồn cảm hứng , niềm say mê, để động viên bồi dưỡng các em trở thành học sinh có năng khiếu, có tâm hồn văn học. Là một giáo viên Tiểu học, tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để dạy cho học sinh thích làm văn, viết văn một cách chân thật, có cảm xúc và sinh động. Tôi mạnh dạn đưa ra “ Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Nga Trung huyện Nga Sơn”.

 

doc 20 trang thuychi01 7702
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Nga Trung huyện Nga Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt giữ một trong những vị trí quan trọng nhất. Với nhiệm vụ là trang bị cho học sinh những tri thức về hệ thống Tiếng Việt chuẩn mực, rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sử dụng thành thạo Tiếng Việt trong hoạt động tư duy và giao tiếp. Mặt khác, trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt lớp 5 lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản để hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói đọc, viết), để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau như Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn. Song khó hơn cả đối với người dạy cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn. Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. 
 Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính của chương trình Tập làm văn lớp 5 là văn miêu tả. Tả cảnh là một dạng bài khó vì học sinh chưa có khả năng quan sát tinh tế, chưa cảm nhận hết được vẻ đẹp của cảnh hay những thay đổi của cảnh theo thời gian, chưa biết dựa vào cảm xúc của mình để miêu tả cho cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn. Vì vậy, làm thế nào để cho học sinh làm văn hay và có hiệu quả là một vấn đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm công tác giáo dục.
Từ thực tế giảng dạy Tập làm văn dạng bài văn tả cảnh, tôi nhận thấy bản thân người giáo viên là người hướng dẫn đôi khi còn có phần lúng túng, bí từ và không biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết được bài văn hay, có hình ảnh, có cảm xúc. Một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn mà không có một sự hướng dẫn cụ thể nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh. Vì thể đòi hỏi ở người thầy phải có cái tâm, cái tài để truyền cho các em nguồn cảm hứng , niềm say mê, để động viên bồi dưỡng các em trở thành học sinh có năng khiếu, có tâm hồn văn học. Là một giáo viên Tiểu học, tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để dạy cho học sinh thích làm văn, viết văn một cách chân thật, có cảm xúc và sinh động. Tôi mạnh dạn đưa ra “ Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Nga Trung huyện Nga Sơn”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
 - Nghiên cứu thực trạng chung để đưa ra giải pháp dạy học văn tả cảnh nhằm nâng cao chất lượng viết văn cho học sinh.
 - Giúp giáo viên có kĩ năng trong khi dạy các bài tập làm văn tả cảnh.
- Giúp học sinh:
 Biết cách làm văn tả cảnh, nắm được cấu tạo 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài) của một bài văn tả cảnh; biết phân tích cấu tạo của một bài văn tả cảnh.
 Thấy được những ưu điểm, khuyết điểm và cách chữa lỗi đoạn văn, bài văn của mình.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
 - Phương pháp dạy - học nội dung bài văn tả cảnh ở lớp 5.
 - Các giải pháp để nâng cao chất lượng làm văn tả cảnh.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu liên quan đến dạy học văn tả cảnh ở Tiểu học.
 - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Tìm hiểu kết quả học tập của học sinh, trao đổi với đồng nghiệp về những khó khăn, thiếu sót khi dạy văn tả cảnh.
 - Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm: Rút ra kinh nghiệm từ thực tế của bản thân và học sinh thông qua cách dạy và cách học.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHGIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
- Khái niệm về văn tả cảnh:
	Văn tả cảnh là dạng bài văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó xung quanh mình.
- Các yếu tố tác động đến khả năng làm văn tả cảnh của học sinh:
 + Óc quan sát: Trước khi tả một bài văn tả cảnh nào đó học sinh phải được quan sát cảnh đó qua thực tế, qua phim ảnh, sau đó mới nâng cao mức độ là học sinh tưởng tượng.
 + Vốn từ: Học sinh phải giàu vốn từ, có vốn hiểu biết về từ ngữ, ngữ pháp, khả năng sử dụng câu, từ... 
 + Khả năng dạy học của giáo viên: Giáo viên phải có phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, biết khởi nguồn cảm hứng văn học cho học sinh, tránh cho các em sa vào cái khuôn mẫu riêng cũng như lệ thuộc vào các bài văn mẫu...
- Các căn cứ của vấn đề:
+ Căn cứ vào mục tiêu, chương trình Tiếng Việt lớp 5 - bậc Tiểu học.
 + Căn cứ vào các tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học môn Tiếng Việt.
+ Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh tiểu học.
+ Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh của nhà trưòng. 
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở trường Tiểu học Nga Trung:
	2.1.Về phía giáo viên:
 Qua nghiên cứu, trao đổi với một số đồng nghiệp và dự giờ thăm lớp, tôi nhận thấy hầu hết các đồng chí giáo viên đã quan tâm đến việc dạy học phân môn Tập làm văn. Các đống chí đã đầu tư nghiên cứu, dự giờ các đồng nghiệp để có các biện pháp dạy cho học sinh dễ hiễu, và làm thế nào để các em viết được bài văn đạt yêu cầu nhưng vẫn còn một số tồn tại sau:
 - Một số đồng chí chưa chủ động, sáng tạo trong việc dạy học, chưa khơi được nguồn cảm hứng học văn để khơi gợi cách viết tự nhiên ở mỗi học sinh.
 - Việc cảm nhận văn của giáo viên cũng chưa cao nên cảm xúc còn nghèo, 
khô cứng. Do đó khi phân tích các bài Tập đọc, các đoạn văn mẫu còn lí thuyết, rập khuôn. Dạy học sinh căn bản theo văn mẫu, thiếu tính sáng tạo.
 - Giáo viên không thực hiện đúng các yêu cầu khi trả bài viết cho học sinh, không giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có sự chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau.
2.2. Về phía học sinh:
- Học sinh chưa có hứng thú viết văn miêu tả.Các em còn thiên về liệt kê lại những gì nhìn thấy một cách máy móc. Khi làm văn, học sinh miêu tả còn hời hợt, chung chung không làm nổi bật được cảnh đang tả. Hầu hết các em đều theo một lối viết văn như trả lời câu hỏi.
 - Các em chưa hiểu rõ đặc điểm của văn tả cảnh, chưa phân biệt được sự khác nhau giữa văn tả cảnh và các kiểu bài văn khác
 - Học sinh chưa có phương pháp làm văn, chưa có ý thức quan sát đối tượng miêu tả và ghi chép những điều quan sát được một cách cụ thể và chi tiết.
 - Không có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế, cảm xúc không tự nhiên, tình cảm gượng ép và khô cứng.
 - Bài văn học sinh làm thường vay mượn ý tình của người khác, các em thường sao chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đề bài văn quy định như thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng cần miêu tả là gì, không chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng như không có cảm xúc về nó.
 - Trong tiết trả bài, học sinh chưa được chữa lỗi và tự sửa lỗi đầy đủ.
 Qua khảo sát chất lượng thực tế phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 5B, tôi đã thu được kết quả như sau:
Sĩ số 
Học sinh
Các bài văn 
hoàn thành tốt
Các bài văn 
hoàn thành 
Các bài văn 
chưa hoàn thành .
SL
%
SL
%
SL
%
27 em
5
18,5
9
33,3
13
48,2
 Tỉ lệ học sinh làm văn tốt và biết cách làm văn còn thấp. Qua tìm hiểu, tôi thấy nổi lên một số nguyên nhân sau:
 Một là: Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
 Hai là: Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả hoặc khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả.
 Ba là: Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật cụ thể nào đó.
 Bốn là: Giáo viên chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của dạng bài văn tả cảnh.
1.1. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh:
Khi dạy văn tả cảnh, giáo viên phải cung cấp cho học sinh đối tượng của bài. Đó là những cảnh vật quen thuộc xung quanh các em: một cơn mưa, một ngày nắng đẹp, một đêm trăng đẹp,một dòng sông, một cánh đồng, một góc phố Bài văn tả cảnh là thể loại văn bản mang tính nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn tả cảnh là thứ ngôn ngữ giàu sức gợi cảm, ngôn ngữ đã được gọt giũa một cách công phu. Tả là mô phỏng, là vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hóa đối tượng có hình ảnh  chứ không phải là liệt kê các chi tiết.
Văn tả cảnh mang tính chất thông báo thẩm mĩ, dù tả bất kì đối tượng nào, có bám sát thực tế đến đâu thì văn tả cảnh không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức tinh tế và phong phú. Chẳng hạn khi tả trăng, nhà thơ Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế bằng cái nhìn nhãn quan trẻ thơ, bằng tình yêu của tâm hồn trẻ thơ, rất đỗi hồn nhiên trong sáng: Trăng hồng như quả chín/ Lơ lửng mà không rơi hay Trăng bay như quả bóng/ Bạn nào đá lên trời. Còn đối với nhà văn Nam Cao thì vầng trăng và ánh sao lại được nhìn nhận theo một cách hoàn toàn khác: “Trăng là cái liềm vàng giữa cánh đồng đầy sao, là cái đĩa bạc trên cái thảm nhung da trời. Trăng tỏa rộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn”.
 Như vậy, để tả hay, tả đúng thì phải tả thật, giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, hay tả theo một công thức sáo rỗng.
 Nhìn chung: Mỗi cảnh đều nằm trong một không gian và thời gian, đó là cái nền cho cảnh vật được miêu tả. Các em cần nêu được khung cảnh chung này, nhưng đặc biệt cần tập trung tả những nét tiêu biểu của cảnh, làm cho nó khác với cảnh khác. Khi tả cảnh các em có thể lồng tả người, tả vật trong cảnh để cho bài văn thêm sinh động.
1.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài văn:
 Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, nên yêu cầu đầu tiên là các em phải viết đúng đề bài, đúng thể loại. Như vậy, để làm được bài văn hay giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh thực hiện những công việc sau:
- Đọc kĩ đề bài: Giáo viên lưu ý học sinh có thể dùng bút chì gạch chân các từ ngữ trọng tâm của đề bài.
 - Phân tích đề: Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (dạng bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài: Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). 
Giáo viên giúp học sinh hiểu được việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung bài viết. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc xác định:
 a.Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
 b.Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
 c.Yêu cầu về trọng tâm là:Ở trong một vườn cây (hay trong công viên.).
 Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
 Qua việc sử dụng giải pháp trên đã giúp học sinh lớp 5B viết được bài văn đúng yêu cầu, các em đã biết cách viết đúng trọng tâm, bài văn viết có hồn hơn. Ngoài ra còn giúp các em hứng thú hơn với việc viết bài văn miêu tả, không còn tình trạng viết bài theo lối đối phó.
Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh.
2.1. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả:
a. Tập cho học sinh thói quen quan sát:
Học sinh thường không có thói quen quan sát. Phải quan sát để tìm ra những nét nổi bật, độc đáo của đối tượng miêu tả. 
- Quan sát tổng thể đối tượng, ở cả trạng thái động và tĩnh, quan sát bằng tất cả các giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác
- Cần xác định vị trí và thời điểm quan sát, trình tự và nội dung quan sát. 
- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát .
- Quan sát và so sánh điểm giống nhau và khác nhau với các đối tượng khác có ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật xung quanh.
- Có thể ghi nhớ trong đầu, hoặc ghi chép cẩn thận, đầy đủ vào sổ sách.
- Có thể quan sát trực tiếp hoặc bằng tranh, ảnh, hồi tưởng bằng trí nhớ.
- Quan sát phải luôn gắn với việc tìm ý và tìm từ ngữ để diễn tả. 
- Lập bảng quan sát và yêu cầu các em ghi kết quả quan sát vào bảng.
Một số ví dụ:
- Hướng dẫn học sinh quan sát và hoàn thành bảng quan sát khi tả dòng sông quê hương:
Mắt thấy
(Thị giác)
Sông rộng mênh mông, trải dài
Thuyền bè đi lại trên sông tấp nập
Sóng nhấp nhô
Bờ bên phải: Bãi ngô xanh biêng biếc
Bờ bên trái: Bãi cát trải dài, trắng xoá
Mặt trời, mặt trăng soi bóng xuống mặt nước
Mặt sông loang loáng, lấp lánh
Tai nghe
(Thính giác)
Sóng vỗ rì rào, soàn soạt
Bãi ngô bên bờ lao xao, xào xạc
Tiếng gõ lanh canh của thuyền đánh cá 
 - Tiếng hát của ngư dân trong đêm trên sông
Mũi ngửi (Khứu giác)
Mùi tanh tanh của thuyền no bụng cá
Da (Xúc giác)
Nước mát rượi
- Hướng dẫn học sinh hoàn thành bảng quan sát dòng sông theo trình tự thời gian:
Sáng
- Sông hiền hoà chảy, uốn lượn như dải lụa.
- Sóng rì rào ca hát
- Trên mặt sông, thuyền chở người, chở hàng...đi lại như mắc cửi.
- Bến sông nhộn nhịp tiếng cười nói.
Trưa
- Mặt trời chiếu tia nắng chói chang làm sông đỏ ngầu giận dữ, cuồn cuộn chảy về xuôi.
Chiều
- Mặt nước gợn sóng, những con sóng nhẹ nhàng xô vào hai bên bờ.
- Lũ trẻ tắm sông tha hồ lặn ngụp.
- Làn nước mát rượi ôm ấp lũ trẻ.
- Đoàn thuyền no bụng cá nối đuôi nhau cập bến.
Tối
- Trăng lên, ánh trăng toả xuống mặt sông.
- Mặt sông như trải rộng mênh mông, bàng bạc một màu.
- Ánh đèn hai bên bờ tạo thành vệt sáng lung linh.
- Tiếng gõ lanh canh của thuyền đánh cá đêm, tiếng hát của ngư dân làm dòng sông thêm đẹp, thêm sinh động.
- Khi dạy cho học
 sinh tả cánh đồng quê em, giáoviên yêu cầu học sinh tự quan sát cánh đồng làng mình để các em tận mắt quan sát các sự vật trên cánh đồng.
Cánh đồng lúa Thôn 1 – Xã Nga Trung
- Những cảnh định tả mà nơi ở của học sinh không có, các em không thể quan sát trực tiếp được, giáo viên sưu tầm một số tranh ảnh hoặc trình chiếu cho học sinh quan sát để giúp các em có vốn kiến thức thực tế hơn. Ví dụ: Để tả cảnh dòng sông quê em, giáo viên cho học sinh quan sát tranh, ảnh dòng sông và dùng câu hỏi khai thác. ( Sông chảy thẳng hay quanh co, uốn lượn ? Lòng sông rộng hay hẹp ? Nước sông nhiều hay ít ? Màu sắc của nước sông như thế nào ? Trên mặt sông có những hình ảnh gì nổi bật ? Cảnh hai bên bờ sông có gì làm em thích thú ?...)
 Sông Hưng Long – Thị trấn Nga Sơn
Với cách dạy cho học sinh quan sát tranh, tôi nhận thấy bài văn của học sinh có nhiều hình ảnh phong phú, cách nhìn cảnh vật tinh tế hơn. Do đó khả năng viết văn cũng tốt hơn.
b. Lựa chọn hình ảnh tiêu biểu và nội dung để tả:
 Để lựa chọn hình ảnh tiêu biểu và nội dung để tả trong bài văn, giáo viên hướng dẫn học sinh:
- Căn cứ vào hình ảnh lựa chọn khi quan sát.
- Căn cứ vào nội dung ghi chép được.
 - Chọn lựa những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và khác biệt của đối tượng để miêu tả.
 Lựa chọn hình ảnh, hoạt động của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên hình ảnh tổng thể về đối tượng, có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật thiết với đối tượng.
2.2. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh:
Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy vốn hiểu biết về cảnh, về sự thay đổi của cảnh ở học sinh còn quá ít, thậm chí có sự sai lệnh. Điều này do nhiều nguyên nhân: có thể các em chưa có cơ hội tiếp cận cảnh để quan sát, để khám phá về cảnh, chưa có thời gian để quan sát cảnh trong một thời gian dài và vốn hiểu biết về tự nhiên còn hạn chế. 
Ví dụ: 
 - Học sinh không rõ sông ít nước vào mùa nào, nhiều nước vào mùa nào, nước sông luôn ngầu đục hay có lúc đục, lúc trong, bờ sông có bên lở bên bồi
 - Học sinh không nắm rõ được sự thay đổi của cảnh vật theo thời gian nên khi tả có thể tả cây phượng vào mùa xuân có tán lá xum xuê, xanh mướt, cánh đồng lúa chín vàng vào tháng sáu, tháng bảy
Chính vì kiến thức về cảnh không có hoặc có ít đã làm các em thiếu tự tin trong khi viết văn miêu tả cảnh vật đó.Muốn khắc phục tình trạng trên giáo viên cần làm những việc sau:
 + Tích cực yêu cầu học sinh đi quan sát thực tế các cảnh vào các thời điểm khác nhau, ở các vị trí khác nhau.
 + Bổ sung vốn kiến thức về cảnh qua các tiết Tiếng Việt, có tài liệu đưa ra liên quan đến cảnh vật, qua tiết địa lý, khoa học
 + Cho học sinh xem tổng quan về cảnh qua kênh thông tin truyền hình. 
 + Thường xuyên bổ sung vốn sống cho học sinh ở mọi nơi mọi lúc.
 + Hướng dẫn học sinh lập từ điển về các cảnh vật được quan sát, yêu thích.
2.3. Hướng dẫn các em quan sát qua tranh ảnh, hoặc video:
 Tư duy của học sinh tiểu học là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.Vì vậy để giúp các em viết được bài văn miêu tả hay cần cho học sinh không những quan sát thực tế mà còn phải cho học sinh quan sát qua tranh ảnh, hoặc video.
 Ngoài việc gợi ý và cho các em quan sát thực tế cánh đồng, tôi còn cho học sinh quan sát qua ảnh. Đồng thời còn giúp các em quan sát kỹ từng phần của cảnh hoặc sư thay đổi của cảnh theo thời gian. Từ đó các em có cơ sở để viết văn một cách tốt hơn.
 Cảnh cánh đồng rau Thôn 1- Nga Trung.
 Cảnh cánh đồng dưa Thôn 2 - Nga Trung
 Cảnh cánh đồng lúa Thôn 3 - Nga Trung
	Qua biện pháp trên đã giúp các em học sinh biết cách quan sát một cách chi tiết cảnh sẽ tả trước khi viết bài.Từ đó đã giúp các em có những hiểu biết về cảnh, có vốn sống nhất định để viết văn miêu tả tốt hơn. Chính vì thế các em yêu thích môn học hơn. Có hứng thú hơn khi làm văn miêu tả.
Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý.
 - Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản.
 - Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không đúng trọng tâm. 
 - Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chung: Bài văn tả cảnh thường có 3 phần:
 + Mở bài : Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả.
 + Thân bài: Tả từng phần của cảnh ( nếu tả theo trình tự không gian) hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian( nếu tả theo trình tự thời gian)
 + Kết bài : Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ về cảnh được tả.
 

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_bien_phap_ren_ki_nang_lam_van_ta_canh_cho_hoc_sinh_lo.doc