Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong bài làm văn của học sinh lớp 11B5
Từ xa xưa, người xưa đã có câu: " Nét chữ - nết nghười" đủ để cho chúng ta thấy vai trò của chữ viết được đánh giá cao như thế nào. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, làm bất cứ công việc gì đề cần đến văn bản, giấy tờ và những văn bản đó cần phải mang tính khoa học, chính xác, chặt chẽ , lô gic. chúng ta đã biết, có đọc đúng mới viết đúng. Có viết đúng chính tả mới có thể tạo tiền đề cho việc viết văn.
Trong trường THPT. việc viết các bài văn có vai trò rất quan trọng. Các bài viết văn không chỉ đánh giá học sinh về mặt điểm số mà còn rèn luyện tính kiên nhẫn, rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng chính tả). cách nói năng, bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh.
Hiện nay, nhiều học sinh lơ là trong việc rèn luyện kĩ năng làm văn dẫn đến chất lượng bài làm văn của học sinh ngày càng bị giảm sút. Tình trạng phổ biến là học sinh yếu kĩ năng làm văn. Hầu hết học sinh mắc lỗi trong việc viết văn từ một đoạn văn ngắn cho đến một bài luận dài với rất nhiều kiểu lỗi.
Giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong trường THPT đã có cố gắng trong việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như mong đợi. Vậy để làm gì có thể củng cố, rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh? Người viết bài này xin đưa ra một số kinh nghiệm mình đã tích lũy được qua quá trình dạy học môn Ngữ văn ở lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch Thành - Thanh Hóa.
MỤC LỤC MỤC NỘI DUNG TRANG MỤC LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 2 1 Lí do chọn đề tài 2 2 Mục đích của đề tài 2 3 Đối tượng nghiên cứu 2 4 Phương pháp nghiên cứu 2 PHẦN NỘI DUNG 3 I CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 3 II THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: 4 1 Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay 4 2 Các lỗi thường gặp trong viết văn của học sinh lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 4 2.1 Lỗi chính tả 4 a Lỗi viét hoa 4 b Lỗi viết tắt 5 c Lỗi dùng số và chữ biểu thị số 6 d Lỗi chính tả âm vị 6 2.2 Lỗi dùng từ 8 3 Nguyên nhân 9 III NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VIẾT VĂN CHO HỌC SINH 10 1 Cần bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thích văn chương 10 2 Rènluyện chính tả và chữ viết cho học sinh 10 2.1 Luyện phát âm 11 2.2 Luyện viết chính tả 11 2.3 Rèn luyện kỹ năng dùng từ cho học sinh 11 2.4 Giáo viên phai giao bài tập thường xuyên cho học sinh 12 2.5 Học sinh học cách dùng từ, viết câu, dựng đoạn 12 IV NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 12 V KẾT LUẬN 14 1 Kết luận 14 2 Kiến nghị 14 VI TÀI LIỆU THAM KHẢO 15 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Từ xa xưa, người xưa đã có câu: " Nét chữ - nết nghười" đủ để cho chúng ta thấy vai trò của chữ viết được đánh giá cao như thế nào. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, làm bất cứ công việc gì đề cần đến văn bản, giấy tờ và những văn bản đó cần phải mang tính khoa học, chính xác, chặt chẽ , lô gic. chúng ta đã biết, có đọc đúng mới viết đúng. Có viết đúng chính tả mới có thể tạo tiền đề cho việc viết văn. Trong trường THPT. việc viết các bài văn có vai trò rất quan trọng. Các bài viết văn không chỉ đánh giá học sinh về mặt điểm số mà còn rèn luyện tính kiên nhẫn, rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng chính tả). cách nói năng, bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh. Hiện nay, nhiều học sinh lơ là trong việc rèn luyện kĩ năng làm văn dẫn đến chất lượng bài làm văn của học sinh ngày càng bị giảm sút. Tình trạng phổ biến là học sinh yếu kĩ năng làm văn. Hầu hết học sinh mắc lỗi trong việc viết văn từ một đoạn văn ngắn cho đến một bài luận dài với rất nhiều kiểu lỗi. Giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong trường THPT đã có cố gắng trong việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như mong đợi. Vậy để làm gì có thể củng cố, rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh? Người viết bài này xin đưa ra một số kinh nghiệm mình đã tích lũy được qua quá trình dạy học môn Ngữ văn ở lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch Thành - Thanh Hóa. 2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài này chỉ xin dừng ở việc chỉ ra các lỗi về kĩ năng viết chính tả mà học sinh mắc phải và đề cập một số biện pháp khắc phục những lỗi đó. 3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp hạn chế lỗi chính tả trong bài làm văn cho học sinh lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch Thành - Thanh Hóa. 4. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp ứng dụng cho đề tài bao gồm: - Phương pháp điều tra. - Phương pháp trắc nghiệm. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI: Văn chương vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người hóa thân và thăng hoa. Vì thế nó vô cùng tinh vi và phức tạp. Môn Ngữ văn trong nhà trường là môn khoa học nhân văn. Tuy vẫn mang tính phức tạp của đối tượng nghiên cứu xong là một môn học thì nó phải đòi hỏi những chuẩn mực khoa học để đánh giá các hoạt động giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh. Việc đọc hiểu văn bản là những thao tác đầu tiên của hình thức tập dượt nghiên cứu văn học. Nghiên cứu văn học là để hiểu văn học, đối tượng cụ thể là tác phẩm văn học. “Cơ sở và xuất phát điểm của khoa học văn học là sự đối thoại với các văn bản văn học thông qua hoạt động đọc và hiểu chúng”. Đây cũng là vấn đề được tác giả Trần Đình Sử quan tâm, theo đuổi khá lâu. Trong tạp chí Nhà văn, số 6-2002, GS. cho rằng: “Về tác phẩm văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm văn học xây dựng trên cơ sở khái niệm văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó văn bản chỉ được coi như cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải được cắt nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại”. Như vậy, tư tưởng trở về với văn bản là một luận điểm khoa học khá nhất quán trong phương pháp dạy và học văn của GS. Trần Đình Sử. Cùng với các bộ môn khác góp phần hình thành nhân cách học sinh, môn văn trong trường phổ thông có tầm quan trọng đặc biệt, tác động trực tiếp đến phẩm chất, tư tưởng tình cảm học sinh. Một bài thơ hay, một trích đoạn đặc sắc khắc họa sinh động hình tượng nhân vật, vào và đứng được trong tâm hồn học sinh sẽ trở thành thành lũy, là ngọn hải đăng hướng đạo hành vi, thái độ sống các em. Dạy văn là một hoạt động thuộc phạm trù nghệ thuật, khám phá và chuyển tải cái hay, cái đẹp từ tác phẩm đến học sinh. Mỗi tác phẩm, tùy thể loại, được tuyển chọn trong chương trình sách giáo khoa đều toát lên vẻ đẹp riêng.Tác phẩm văn học mang đặc trưng riêng của cấu trúc tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Đó là một chỉnh thể bao gồm các thành tố nhà văn – văn bản - người đọc tương tác với nhau. Nội dung thẩm mĩ của tác phẩm văn học gắn liền với tầm đón nhận của người đọc. Tiếp nhận văn học tức là đọc hiểu để biến văn bản thành một thế giới hình tượng sinh động và nắm bắt được ý nghĩa của nó. Cùng với quá trình đọc hiểu văn bản, trong trường phổ thông, học sinh còn phải viết các bài làm văn theo quy định. Việc viết bài của học sinh không chỉ kiểm tra xem các em lĩnh hội kiến thức, khả năng cảm nhận văn chương mà còn rèn khả năng ngôn ngữ, cách diễn đạt. Thông qua các bài làm văn khả năng vận dụng và diễn đạt ngôn ngữ của các em được cải thiện rất nhiều. Như vậy, trong trường phổ thông các bài làm văn giữ vị trí hết sức quan trọng. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay: Hiện nay, tình trạng học sinh các cấp viết sai lỗi chính tả, dùng sai từ, ngữ pháp đang lên đến mức báo động. Vậy do đâu mà có tình trạng trên? Trước hết là do chính bản thân học sinh các cấp lười học, lười đọc sách báo, thiếu ý thức rèn luyện ngôn ngữ tiếng Việt nên kiến thức và khả năng vận dụng ngôn từ của các em còn yếu kém, mắc nhiều lỗi về chữ và nghĩa của câu. Có không ít học sinh khi kiểm tra đã quá ỷ lại vào sách hướng dẫn, sách học tốt mà chép y nguyên đáp án, lời giải vào bài kiểm tra nên không phát huy được tính tích cực của mình, khi tự viết một bài tập làm văn thì mắc mắc rất nhiều lỗi về chính tả, ngữ pháp. Do không được rèn luyện nên ngày càng có nhiều học sinh, sinh viên mắc phải các lỗi về chính tả, ngữ pháp. Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng này là do sự chủ quan, lơ là việc rèn luyện kỹ năng viết chính tả của một số thầy, cô giáo khi không dành thời gian để sửa lỗi chính tả, ngữ pháp cho học sinh, lúc chấm bài chỉ phê rất chung chung như: Bài viết sơ sài, câu văn lủng củng, nên khi học sinh xem bài thì không hề biết mình mắc những lỗi gì cụ thể. 2. Các lỗi thường gặp trong viết văn của học sinh lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch Thành - Thanh Hóa. 2.1. Lỗi chính tả: Cũng giống như rất nhiều học sinh trên cả nước, học sinh lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch Thành - Thanh Hóa cũng viết sai chính tả rất nhiều. Cụ thể các em mắc những lối sau: a. Lỗi viết hoa. Lỗi viết hoa là một trong những loại lỗi chính tả xuất hiện rất nhiều trong bài viết của học sinh. Lỗi viết hoa bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ : viết hoa sai quy định chính tả và viết hoa tùy tiện. * Viết hoa sai quy định chính tả : Viết hoa sai quy định chính tả là viết hoa hay không viết hoa theo đúng quy định chính tả về viết hoa. Chẳng hạn như học sinh không viết hoa chữ cái mở đầu bài viết, đoạn văn, không viết hoa sau dấu chấm (.),dấu chấm hỏi (?), dấu chấm than (!), dấu chấm lửng hết câu (...), hay vi phạm các quy định về cách viết hoa các danh từ riêng. Ví dụ : hồ chí minh. Vũ trọng Phụng, Phan bội Châu, Nam cao, Vũ đại, Tố như, chị út Tịch, chí Phèo, tác phẩm người mẹ cầm súng, cách mạng tháng 8, cách mạng tháng 10.... Lẽ ra, theo quy định chính tả, học sinh phải viết : Hồ Chí Minh. Vũ Trọng Phụng, Phan Bội Châu, Nam Cao, Vũ Ðại, Tố Như, chị Út Tịch, tác phẩm Chí Phèo, Người mẹ cầm súng, Cách mạng tháng Tám, Cách mạng tháng Mười... * Viết hoa tùy tiện : Viết hoa tùy tiện là viết hoa những đơn vị từ vựng bình thường, không nằm trong quy định chính tả về viết hoa. Ví dụ: Nguyễn Đình Chiểu là Nhà thơ nổi tiếng của Văn học Việt Nam, Chế độ Phong kiến tàn ác, giai cấp Tư sản, cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa, giai cấp Vô sản.... Lỗi viết hoa là loại lỗi chính tả thông thường, dễ tránh, dễ khắc phục, nhưng học sinh THPT vẫn mắc phải và điều đó được thể hiện rõ ở lớp 11B5. Ðiều đó có nguyên nhân của nó, xét về mặt khách quan lẫn chủ quan. b. Lỗi viết tắt : Lỗi viết tắt xuất hiện trong bài viết của học sinh thấp hơn nhiều so với lỗi viết hoa. Tuy nhiên, trong việc rèn luyện chính tả cho học sinh, lỗi viết tắt cũng cần được lưu ý đến. Thông thường, lỗi viết tắt bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ: viết tắt sai quy định chính tả và viết tắt tùy tiện. * Viết tắt sai quy định chính tả : Viết tắt sai quy định chính tả là viết tắt không theo đúng quy định chính tả về viết tắt. Chẳng hạn như các em dùng mẫu chữ thường, dùng dấu chấm hay dấu gạch xéo giữa các chữ cái viết tắt... Ví dụ : P/V, đ/c, T.P, H.Ð.N.D v.v... Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết : PV, ÐC, TP, HÐND (phóng viên, đồng chí, thành phố, hội đồng nhân dân). * Viết tắt tùy tiện: Viết tắt tùy tiện là dùng các kí hiệu viết tắt mang tính chất cá nhân vào bài viết chính thức. Ðây là các kí hiệu bằng chữ viết Việt Nam hay chữ viết nước ngoài, được chế biến lại, lẽ ra chỉ được dùng khi ghi chép, nhưng học sinh lại đưa vào bài kiểm tra, bài thi, do đó trở thành lỗi chính tả. Ví dụ : ( ta (người ta), ( vật (nhân vật), ( (nhấn), ( (nhận), ( (sau), ((trước), ( (trên), ( (dưới), ( (trong), of (của), on (trên), ...... (những), ...... (nhưng), fê fán (phê phán), ffáp (phương pháp), tình thg (tình thương), fg tiện (phương tiện), ndung (nội dung), t2 (tư tưởng), hthức (hình thức), chnghĩa (chủ nghĩa), chthắng (chiến thắng), xlc (xâm lược),K0 (không), V.V..... Hiện tượng viết tắt tùy tiện rất dễ khắc phục nếu như học sinh có ý thức tránh loại lỗi chính tả này khi làm bài thi, kiểm tra. c. Lỗi dùng số và chữ biểu thị số: Kiểu lỗi chính tả này có hai biểu hiện chính: lẫn lộn giữa hai loại số và lẫn lộn giữa số với chữ biểu thị số. * Lẫn lộn hai loại số: Trong bài viết, có những trường hợp học sinh phải biểu đạt bằng số, chẳng hạn như khi đề cập đến ngày, tháng, năm, thế kỉ... Theo quy định chính tả, tùy trường hợp mà dùng số Á Rập, còn gọi là số thường (1,2,3...), hay số La Mã (I, II, III...). Do không nắm được quy định chính tả, nên học sinh thường sử dụng lẫn lộn hai loại số. Ví dụ : Thế kỉ 20, Ðại hội Ðảng lần thứ 6. Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết bằng số La Mã những trường hợp này mới đúng. *Lẫn lộn số và chữ biểu thị số: Bên cạnh một số trường hợp phải viết số, theo quy định chính tả, có khá nhiều trường hợp phải viết bằng chữ, khi biểu thị số chỉ số lượng, số chỉ thứ tự, số chỉ số lượng phỏng chừng v.v... Do không nắm rõ quy định chính tả và do viết theo thói quen, học sinh dễ lẫn lộn giữa số và chữ biểu thị số trong rất nhiều trường hợp. Ví dụ: Ngày ba, tháng hai, năm một ngàn chín trăm ba mươi; 1 đám tang; 3 đứa con thơ dại; 1 cuộc sống; đẹp I , lần gặp gỡ thứ 2; vài 3 người bạn... Theo quy định chính tả, phải viết : Ngày 3, tháng 2, năm 1930; một đám tang; ba đứa con thơ dại ; một cuộc sống; đẹp nhất; lần gặp gỡ thứ hai, vài ba người bạn... So với hiện tượng lẫn lộn hai loại số, hiện tượng lẫn lộn số và chữ biểu thị số xuất hiện trong bài viết của học sinh nhiều hơn. Tuy nhiên, cả hai loại lỗi sai này cũng dễ tránh, nếu như học sinh nắm được quy định chính tả về việc dùng số và chữ biểu thị số. d. Lỗi chính tả âm vị : Lỗi chính tả âm vị là hiện tượng vi phạm diện mạo ngữ âm của từ thể hiện trên chữ viết. Nói đơn giản hơn, đó là hiện tượng chữ viết ghi sai từ. Dựa vào cấu trúc của âm tiết tiếng Việt, có thể chia lỗi chính tả âm vị thành hai kiểu nhỏ: lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính và lỗi chính tả âm vị đoạn tính. * Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính: Âm vị siêu đoạn tính là loại âm vị không được định vị trên tuyến thời gian khi phát âm, mà được thể hiện lồng vào các âm vị đoạn tính. Trong âm tiết tiếng Việt, thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính. Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính là hiện tượng chữ viết ghi sai thanh điệu của âm tiết. Tiếng Việt có tất cả sáu thanh điệu, được ghi bằng năm dấu thanh: sắc, hỏi, ngã, nặng, huyền và thanh không dấu. Hiện tượng ghi sai thanh điệu chỉ xảy ra ở hai thanh hỏi, ngã. Trong bài viết của học sinh lớp 11B5 mà người viết đã khảo sát, kiểu lỗi sai này xuất hiện khá nhiều. Hầu như bài nào cũng có lỗi hỏi, ngã. Thậm chí, chép đề cũng sai hỏi, ngã. Dưới đây là những từ sai hỏi, ngã của học sinh lớp 11B5: Gố, rế, mớ, đá làm Đúng ra phải là: Gỗ, rễ, mỡ, đã làm Nguyễn Trãi thì các em viết Nguyễn Trái * Lỗi chính tả âm vị đoạn tính : Âm vị đoạn tính là các âm vị được phân bố nối tiếp nhau trên tuyến thời gian khi phát âm. Trong âm tiết tiếng Việt, âm vị đoạn tính gồm có phụ âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối / bán âm cuối. Lỗi chính tả âm vị đoạn tính là hiện tượng chữ viết ghi sai các âm vị vừa nêu. Cụ thể là : Ghi sai phụ âm đầu : Hiện tượng ghi sai phụ âm đầu trong bài viết của học sinh thường thể hiện ở sự lẫn lộn các chữ cái hay các tổ hợp chữ cái ghi phụ âm đầu sau đây : - ch / tr : chung thành, trà đạp, chống chả, từng chải, chăng chối, chủ chương, chông đợi, chầy chật, xáo chộn... - s / x : sương máu, xum họp, sâu sa, đi xứ, đổi sử... xúc vật, xúc tích, xi mê, sống xót, xỉ nhục, bổ xung... - gi / d : thúc dục, dan dối, dành lại, giả man, để giành, dèm pha, che dấu, dòn dã, gia chạm, vấn thân, bởi gì. - g (gh) / r : ranh tị, hàn rắn , gàn buộc, đói ghét, gắn gỏi... - h /q : huênh quang, quang vắng , quyển quặc, quyền bí, quà quyện, quyên náo... Ghi sai âm đệm : Trong âm tiết tiếng Việt, âm đệm /-u-/ phân bố sau phụ âm đầu, được ghi bằng hai chữ cái u và o, tùy trường hợp. Trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm đệm thường có biểu hiện thiếu chữ cái ghi âm đệm. Ví dụ : lẩn quẩn, lạn đả, lanh quanh, lay hoay, lằng ngoằng, lắt chắt, ngó ngáy, ngọ ngậy v.v... Ghi sai âm chính : Trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm chính thường có hai biểu hiện chính : Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn, cụ thể là giữa : - ă / â : câm phẫn, che lắp, tái lặp, trùng lập, tối tâm, xăm lăng, hâm hở, đầm thấm, e ắp, hắp tắp v.v.... - o / ô/ ơ : bốc lột, tận góc, mưa mốc, chốp bu, chốp lấy, hồi hợp, đớp chát, họp nhất, bộp tai v.v... Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn với các chữ cái ghi nguyên âm đôi, nhất là giữa : - ê / i / iê : điều đặn, điu đứng, điểu cáng, kiềm kẹp, chiệu đựng, hiêu quạnh, nâng niêu, tìm ẩn, thất thiểu v.v... - u / uô : tuổi thân, muổi lòng, đen đuổi, theo đui, hất huổi, xuôi khiến, xui tay v.v... - ư / ươ : chưởi mắng, cữi cổ, tức tửi, rác rửi, sửi ấm v.v... Ghi sai âm cuối / bán âm cuối : Hiện tượng ghi sai âm cuối trong bài viết của học sinh thường có hai biểu hiện chính : Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi phụ âm cuối, cụ thể là lẫn lộn giữa : - c /t : biền biệc, buộc miệng, chất phát, heo húc, lẩn lúc, lũ lược, mất mác, man mát, mua chuột, phó mặt, phúc chốc, tấc bậc, tiếc hạnh v.v... - n / ng : dun túng, hiên ngan, hoang hỉ, lãng mạng, làm lụn, phản phất, rung sợ, rung rẩy, sản khoái, tang hoang, vung trồng, vụn về ... Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi bán âm cuối, cụ thể là giữa : - o /u : báo vật, cao có, lao lách, láo lỉnh, mếu máu, trao chuốt, trao dồi v.v.... - i /y : ái nái, đai nghiến, đài đọa, lai động, mai mắn, mỉa may, phơi bài, tai chân, sai mê, van lại ... Giữa bốn kiểu lỗi chính tả âm vị đoạn tính, trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm cuối xuất hiện nhiều hơn. Kế đến là ghi sai âm chính và ghi sai phụ âm đầu. Lỗi ghi sai âm đệm xuất hiện ít nhất. 2.2. Lỗi dùng từ: *Lỗi dùng từ sai phong cách: Thông thường hoàn cảnh giao tiếp được chia làm hai loại chính: hoàn cảnh giao tiếp theo nghi thức và hoàn cảnh giao tiếp không theo nghi thức. Hoàn cảnh giao tíêp theo nghi thức đòi hỏi ngôn ngữ được gọt giũa. Nhưng nhiều khi học sinh trong bài viết của mình thường sử dụng khẩu ngữ: Hàn Mặc Tử bị hủi về thể xác nhưng tâm hồn nhất quyết không bị hủi cho. Đúng ra học sinh phải viết là: Hàn Mặc Tử bị đau đớn về thể xác nhưng tâm hồn ông vẫn tràn ngập cảm hứng sáng tạo. * Lỗi về nghĩa của từ: Mỗi từ được dùng phải đúng nghĩa. Nhiều học sinh dùng từ sai nghĩa: Trong bài văn viết về mẹ, một học sinh viết: Mẹ em vất vả lang thang, lảng vảng ở chợ để bán hàng nuôi hai chị em ăn học. Trong trường hợp này, học sinh đã sai khi dùng từ “ lang thang’, “ lảng vảng”. Khi phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân một học sinh viết: Huấn Cao đã đồng hóa viên quản ngục. * Lỗi lặp từ: Trong một câu văn học sinh có thể dùng một từ đến hai ba lần: Khi phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, một học sinh viết: Nhà thơ Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Xuân Diệu có nhiều bài thơ trong đó có bài thơ Vội vàng. 3. Nguyên nhân: Theo suy nghĩ và kinh nghiệm của một nhà giáo, tôi xin mạnh dạn nêu lên những nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, ảnh hưởng Internet. Ngày nay đông đảo học sinh sử dụng Internet, ngoài số ít biết khai thác, tận dụng để học tập thì phần lớn chỉ để chơi game và chat chít. Khi “chát” các em hầu hết sử dụng tiếng Việt không dấu. dùng ngôn ngữ ký hiệu và dùng cách diễn đạt rất ngắn gọn bằng những từ ngữ chỉ quen dùng với giới trẻ, và theo quan niệm của họ như thế mới được cho làsành điệu. Ngôn ngữ phản ánh tư duy. Việc thường xuyên sử dụng ngôn ngữ bất thường, cụt ngủn như thế sẽ góp phần làm “cùn” đi tính thẩm mỹ và tinh tế vốn có của ngôn ngữ truyền thống, còn gây khó khăn cho việc rèn luyện tư.duy.sâu.sắc. Thứ hai, ảnh hưởng của phim ảnh. Ngày nay. truyền hình, phim ảnh phát triển đến chóng mặt. Có nhiều kênh chiếu những phim hấp dẫn với mật độ dày đặc khiến cho thanh thiếu niên ngoài giờ đến trường chỉ “mê mẩn” với phim ảnh. Việc xem phim nhiều khiến các em lười đọc sách. Nếu có đọc thì đó cũng chỉ là các truyện tình yêu rẻ tiển, những truyện tranh hình nhiều mà chữ ít. Có rất nhiều em đọc và bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ trong các câu truyện đó. Thứ ba, ảnh hưởng của âm nhạc “thị trường”. Ngày nay có một bộ phận khá đông giới trẻ mê nhạc “thị trường” với những ca từ giai điệu mà khi hát lên như đọc, như nói. Lời lẽ rất cộc cằn và thô thiển. Những ngôn từ đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển ngôn ngữ cũng như tâm hồn của học sinh. Thứ tư, những năm học gần đây việc áp dụng hình thức thi trắc nghiệm với việc lựa chọn các phương án hoặc A, hoặc B, hoặc C, hoặc D cũng góp phần làm “cùn” tư duy cũng như cách diễn đạt của học sinh. Thứ năm, ngày nay rất ít giáo viên dạy cho học sinh kỹ năng làm một bài viết hoàn chỉnh. Ngoài một số ít giáo viên dạy Văn khi chấm bài có sửa lỗi cho học sinh về chính tả, câu cú, diễn đạt, còn đa số giáo viên không sửa lỗi cho học sinh khiến cho các em không biết mình mắc lỗi gì để khắc phục, để lần sau sẽ tiến bộ. Thứ sáu. là việc trên thị trường tràn ngập các bài văn mẫu. Học sinh không cần phải học, suy nghĩ mà cứ thuộc bài văn mẫu làm bài. Nguyên nhân cốt lõi nhất vẫn là do thầy và trò học văn để đối phó với thi cử. Từ những năm học cấp I, cấp II, học sinh đã học thuộc lòng bài văn mẫu, hiếm có giáo viên nào có “con mắt xanh”, cho HS điểm cao vì bài viết “sáng tạo”. Lên đến cấp III, áp lực thi tốt nghiệp lớp 12 càng đè nặng. Từ đầu năm học, các em đã được phát đề cương môn Văn để học thuộc lòng như cháo, để chỉ cần viết đủ ý cũng đạt điểm trung bình. Một nguyên nhân quan trọng nữa là ý thức học văn của học sinh chưa tốt. Nhiều em lười học môn văn, khi viết bài thì không đầu tư thời gian. Các em viết theo kiểu chống đối. Cá biệt có em cho bài về nhà
Tài liệu đính kèm:
- mot_so_bien_phap_nham_han_che_loi_chinh_ta_trong_bai_lam_van.doc