Đề xuất đổi mới phương pháp dạy học nhóm bài thơ đường trong chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT - Ban cơ bản
Về việc dạy và học chương trình văn học nước ngoài ở trường THPT
1.1 Dạy học các tác phẩm văn học nước ngoài (VHNN) từ lâu đã là một bộ phận trong chương trình môn Ngữ Văn bậc trung học phổ thông (THPT). Điều này phản ánh tính tất yếu trong quá trình hội nhập, giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài của văn học và giáo dục Việt Nam. Việc giới thiệu tác giả, tác phẩm thuộc nhiều nền văn học ở nhiều thời đại và thể loại văn học khác nhau nhằm mục đích chính là thông qua sự tác động thẩm mĩ của thế giới nghệ thuật do những nghệ sĩ tài năng sáng tạo nên để mở rộng hiểu biết về văn học, nghệ thuật, bồi dưỡng tình cảm thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh.
Với yêu cầu đó, chương trình VHNN bậc THPT đã chọn một số tác phẩm, thể loại văn học thuộc những nền văn học lớn trên thế giới từ lâu đã gần gũi với đời sống văn hóa người Việt Nam như sử thi Ấn Độ, sử thi Hi Lạp, thơ Đường, kịch phục hưng Anh, tiểu thuyết lãng mạn Pháp, thơ trữ tình Nga, tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc.Rõ ràng là sự lựa chọn phong phú trong thể loại như trên vừa có nền tảng khoa học hợp lý vừa mang lại niềm hứng thú, sự say mê trong việc giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Nhiều tác phẩm được chọn trong chương trình đã được đón nhận nồng nhiệt và tạo ấn tượng thẩm mĩ dài lâu trong các thế hệ học sinh như thơ trữ tình của A. Pus - kin, Ta-go, truyện ngắn của Lỗ Tấn, Sô - lô - khôp.Những hiểu biết về cuộc sống, nhất là thế giới tâm hồn sâu thẳm bên trong của con người mà các tác phẩm VHNN mang lại đã làm nên một phần không nhỏ trong vốn tri thức văn hóa, kỹ năng sống cho nhiều thế hệ học sinh.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHÓM BÀI THƠ ĐƯỜNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT - BAN CƠ BẢN Người thực hiện: Phạm Thị Tuyết Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Hậu Lộc 2 SKKN thuộc môn: Ngữ văn THANH HOÁ NĂM 2019 MỤC LỤC Phần một: Mở đầu I. Lí do chọn đề tài :Trang 2 II. Mục đích nghiên cứu: ..Trang 3 III. Đối tượng nghiên cứu:.Trang 3 IV. Phương pháp nghiên cứu: ..Trang 4 Phần hai: Nội dung: Chương 1: Cơ sở nghiêncứu: ....Trang 4 Chương 2: Một số đề xuất về việc dạy học nhóm bài thơ Đường trong chương trình Ngữ văn lớp 10- ban cơ bản: I. Đổi mới trong tiến trình dạy học.......................................................Trang 6 II. Đổi mới trong kiểm tra đánh giá: Trang 11 Chương 3: Áp dụng sáng kiến trong dạy học văn bản “ Tại lầu Hoàng Hạc tiến Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” I. Áp dụng sáng kiến trong thiết kế giáo ánTrang 11 II. Áp dụng sáng kiến trong kiểm tra đánh giá. Trang 14 Chương 4 : Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến sau khi giảng dạy thơ Đường.Trang 15 Phần ba: Kết luận:Trang 16 PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Về việc dạy và học chương trình văn học nước ngoài ở trường THPT 1.1 Dạy học các tác phẩm văn học nước ngoài (VHNN) từ lâu đã là một bộ phận trong chương trình môn Ngữ Văn bậc trung học phổ thông (THPT). Điều này phản ánh tính tất yếu trong quá trình hội nhập, giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài của văn học và giáo dục Việt Nam. Việc giới thiệu tác giả, tác phẩm thuộc nhiều nền văn học ở nhiều thời đại và thể loại văn học khác nhau nhằm mục đích chính là thông qua sự tác động thẩm mĩ của thế giới nghệ thuật do những nghệ sĩ tài năng sáng tạo nên để mở rộng hiểu biết về văn học, nghệ thuật, bồi dưỡng tình cảm thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Với yêu cầu đó, chương trình VHNN bậc THPT đã chọn một số tác phẩm, thể loại văn học thuộc những nền văn học lớn trên thế giới từ lâu đã gần gũi với đời sống văn hóa người Việt Nam như sử thi Ấn Độ, sử thi Hi Lạp, thơ Đường, kịch phục hưng Anh, tiểu thuyết lãng mạn Pháp, thơ trữ tình Nga, tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc...Rõ ràng là sự lựa chọn phong phú trong thể loại như trên vừa có nền tảng khoa học hợp lý vừa mang lại niềm hứng thú, sự say mê trong việc giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Nhiều tác phẩm được chọn trong chương trình đã được đón nhận nồng nhiệt và tạo ấn tượng thẩm mĩ dài lâu trong các thế hệ học sinh như thơ trữ tình của A. Pus - kin, Ta-go, truyện ngắn của Lỗ Tấn, Sô - lô - khôp..Những hiểu biết về cuộc sống, nhất là thế giới tâm hồn sâu thẳm bên trong của con người mà các tác phẩm VHNN mang lại đã làm nên một phần không nhỏ trong vốn tri thức văn hóa, kỹ năng sống cho nhiều thế hệ học sinh. 1.2 Tuy nhiên, cũng cần phải thừa nhận một thực tế tồn tại nhiều năm qua trong quá trình dạy - học tác phẩm VHNN, đó là việc học sinh chưa thật sự say mê, chưa dành thời gian thích đáng để hiểu đúng, hiểu sâu về vị trí, tầm vóc, các lớp nội dung ý nghĩa và thành công nghệ thuật của các văn bản nước ngoài được giới thiệu. Phần lớn học sinh kể tên được tác giả, tác phẩm VHNN được học nhưng lại lúng túng trong việc trình bày, đánh giá điểm độc đáo, đặc trưng của từng tác phẩm. Về phía người dạy, cũng không ít bạn đồng nghiệp gặp khó khăn trong lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Bên cạnh đó, phải kể đến tâm lí " Không thi không học " mảng VHNN của cả thầy và trò... đã làm cho việc dạy và học VHNN chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Nói như trên, chúng tôi không hề có ý phủ định những thành tựu đã đạt được mà mong muốn đặt ra vấn đề: dạy học tác phẩm văn học nước ngoài trong chương trình THPT như thế nào để đạt mục tiêu như chuẩn kiến thức - kĩ năng đã đặt ra ? 2. Về việc dạy học nhóm bài thơ Đường trong chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT, ban cơ bản 2.1 Đặc điểm chương trình Phần thơ Đường được phân phối chương trình dành 03 tiết: - 01 tiết bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng - 01 tiết bài Cảm xúc mùa thu - 01 tiết: Đọc thêm ba bài: Nỗi oán của người phòng khuê (Vương Xương Linh), Lầu Hoàng Hạc (Thôi Hiệu), Khe chim kêu (Vương Duy). Có thể nói, trong khuôn khổ có hạn của chương trình, phần thơ Đường đã được dành một vị trí xứng đáng (so với sử thi Hi Lạp- 02 tiết, sử thi Ấn Độ - đọc thêm). 2.2 Nằm trong tình hình chung của việc dạy học VHNN, việc dạy học thơ Đường đã đạt được kết quả đáng khích lệ: giới thiệu được một di sản văn hóa tinh thần của nhân dân Trung Quốc, giới thiệu được những tác giả tác phẩm hàng đầu của Đường thi, mang đến cho người dạy và người học những rung cảm thẩm mĩ mới mẻ, đậm chất nhân văn, mở rộng vốn từ Hán Việt, hình thành kĩ năng đọc hiểu tác phẩm VH trung đại, bồi đắp tình cảm trong sáng... Song việc dạy học thơ Đường đã và đang đặt ra nhiều câu hỏi. Rất nhiều thầy cô giáo cảm nhận và thấm thía sự khó khăn của việc dạy thơ Đường: cảm sao cho hết, dạy sao cho thấu chiều sâu và những bến bờ ý nghĩa tầng tầng lớp lớp mà một văn bản rất mỏng manh mở ra ?Vì thế, phương pháp được chọn thông thường vẫn là: thầy giảng trò ghi, thầy cảm nhận và trải nghiệm thay trò. Và trong thực tế, nhiều người dạy thơ Đường như dạy một bài thơ trung đại Việt Nam. Ngoài sự lúng túng về phương pháp nói trên, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá cũng chưa có nhiều đổi mới. Về phía người học, rất nhiều học sinh tỏ ra thiếu hứng thú do sự khác biệt về ngôn ngữ, về văn hóa, sự xa cách về thời đại và nhất là chưa xác định đúng động lực khi học VHNN. Từ thực tế trên, bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi chọn đề tài: "Đề xuất đổi mới phương pháp dạy học nhóm bài thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 10 THPT, ban cơ bản ". II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục tiêu của sáng kiến này là phân tích những cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học thơ Đường, bàn bạc về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, hình thức kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học thơ Đường, soạn giáo án thử nghiệm bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng (Lí Bạch) theo tinh thần đổi mới. Tôi mong muốn góp một tiếng nói dù còn nhỏ bé vào việc nhận thức đúng vai trò vị trí của việc dạy học thơ Đường, đổi mới phương pháp dạy học nhóm bài trên nhằm đạt hiệu quả giáo dục cao nhất. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Vì dung lượng có hạn của một sáng kiến kinh nghiệm, đề tài chỉ tập trung vào nhóm bài thơ Đường trong chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT, ban cơ bản. Bao gồm các bài : - “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” ( Lí Bạch) - “Cảm xúc mùa thu” ( Đỗ Phủ) - Đọc thêm 3 bài: “Nỗi oán của người phòng khuê” (Vương Xương Linh), “Lầu Hoàng Hạc” (Thôi Hiệu), “Khe chim kêu” (Vương Duy). IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Sử dụng kết hợp các phương pháp: - Phương pháp thống kê - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp tiếp cận hệ thống - Phương pháp lịch sử. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học. PHẦN HAI: NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG CƠ SỞ CỦA ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHẦN THƠ ĐƯỜNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 THPT I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Mức độ cần đạt về chuẩn kiến thức, kĩ năng đối với chủ đề thơ Đường Theo Tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ Văn lớp 10 (NXB Giáo dục, 2010), Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 10 quy định mức độ cần đạt về chuẩn kiến thức, kĩ năng đối với chủ đề thơ Đường như sau: - Hiểu được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các bài thơ (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng - Lí Bạch; Thu hứng - Đỗ Phủ; các bài đọc thêm: Hoàng Hạc lâu - Thôi Hiệu; Khuê oán - Vương Xương Linh; Điểu minh giản - Vương Duy): đề tài, cấu tứ, bút pháp tình cảnh giao hòa; phong thái nhân vật trữ tình; tính cách luật và vẻ đẹp hàm súc cổ điển. - Hiểu một số đặc điểm cơ bản của thơ Đường; biết liên hệ đối chiếu để hiểu một số đặc điểm của thơ Đường luật Việt Nam. - Biết cách đọc hiểu tác phẩm thơ Đường theo đặc trưng thể loại. 2. Phương pháp và tiến trình dạy học nhóm bài thơ Đường Sách giáo viên Ngữ Văn 10 tập 1 (NXB Giáo dục, 2006, trang 184) định hướng: khi dạy học nhóm bài thơ Đường, giáo viên cần: - Gợi cho học sinh liên tưởng về các mối quan hệ, đặt mình vào vị trí của nhân vật trữ tình từ đó mà cảm nhận được tâm trạng nhân vật. - Đối chiếu bản dịch thơ với nguyên tác để thấy giữa bản dịch và nguyên tác có một khoảng cách. - Liên hệ so sánh với những tác phẩm cùng đề tài trong văn học Việt Nam. 3. Phương tiện dạy học nhóm bài thơ Đường Giáo viên có thể sử dụng tư liệu dạy học là tranh chân dung Lí Bạch, Đỗ Phủ theo danh mục thiết bị dạy học của Bộ Giáo dục và đào tạo. Ngoài ra, có thể sưu tầm tranh minh họa là phong cảnh sông Trường Giang, phong cảnh vùng rừng núi Vu Sơn, Vu giáp mùa thu, tranh ảnh về lầu Hoàng Hạc, tranh thủy mặc Trung Quốc. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Kiến thức của học sinh về thể loại văn học đã được trang bị ở bậc THCS Tại cấp học THCS, học sinh đã được học một số văn bản văn học viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, thơ ngũ ngôn của tác giả văn học Việt Nam, văn học Trung Quốc thời trung đại ( “Cảnh ngày xuân” - Trần Nhân Tông, “Bánh trôi nước” - Hồ Xuân Hương, “Qua đèo Ngang” - Bà Huyện Thanh Quan, “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” - Lí Bạch). Qua những sáng tác trên, học sinh đã phần nào hình dung được đặc điểm cơ bản của các thể thơ trên về số câu, về số tiếng, quy định về niêm, đối, bút pháp tả cảnh ngụ tình, tính quy phạm trang trọng, hình ảnh ước lệ cổ điển...Đây là vốn tri thức cần thiết, quý báu mà người giáo viên cần lưu ý khai thác trong quá trình tổ chức học sinh tiếp cận văn bản mới. 2. Kiến thức của học sinh về thơ Đường đã được trang bị ở bậc THCS Ở chương trình THCS, văn bản thơ Đường được chọn học gồm: - “Vọng Lư Sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư - Lí Bạch ) - “Tĩnh dạ tư” (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh - Lí Bạch) - “Mao ốc thu phong sở phá ca” (Bài hát gió thu thổi tốc nhà - Đỗ Phủ). Qua tiếp cận với những tác phẩm trên, học sinh đã được trang bị kiến thức cơ bản về thời gian xuất hiện, tồn tại và phát triển của thơ Đường, hiểu được phần nào vẻ đẹp bay bổng lãng mạn trong thơ Lí Bạch, phong cách trầm uất nghẹn ngào của thơ Đỗ Phủ. Đây là những tiền đề quan trọng cho việc dạy và học những văn bản thơ Đường ở chương trình Ngữ Văn 10. 3. Kiến thức của học sinh về từ Hán Việt đã được trang bị ở bậc THCS Do hoàn cảnh lịch sử - địa lí, trong tiếng Việt có một lớp từ đặc biệt, đó là lớp từ Hán Việt - kết quả của quá trình tiếp xúc, giao lưu ngôn ngữ - văn hóa Việt - Hán kéo dài qua hàng chục thế kỉ. Với học sinh lớp 10 THPT, sau thời gian dài học tập môn Ngữ Văn ở các cấp học trước, các em đã có một vốn từ Hán Việt được trang bị khá đồng bộ và có hệ thống. Giáo viên cần chú ý khai thác hiểu biết về từ Hán Việt của học sinh, nhất là khi so sánh đối chiếu giữa bản dịch và nguyên tác. Việc làm này vừa có ý nghĩa giúp hiểu đúng tinh thần văn bản vừa củng cố vốn từ Hán Việt cho các em, hướng tới tích hợp kiến thức và kĩ năng bộ môn. 4. Tâm lí tiếp nhận thơ Đường của học sinh THPT Từ lâu nay, thơ Đường và nhiều thành tựu văn học nghệ thuật Trung Quốc đã đến với công chúng văn học Việt Nam, nhiều tác phẩm thậm chí đã có chỗ đứng bền chặt trong tâm hồn người Việt. Các tác phẩm thơ Đường không quá xa lạ trong tâm lí tiếp nhận của người Việt, trong đó có học sinh phổ thông, vì những sáng tác này đều hướng đến giãi bày tình cảm, cảm xúc rất phổ biến với người phương Đông như nỗi buồn biệt li sầu hận trong tình bạn, tình yêu, nỗi buồn cô lẻ của người lữ thứ trong buổi chiều cô liêu xứ lạ... Qua quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa hàng ngàn năm nay giữa Việt Nam và Trung Quốc, những cách diễn tả đặc trưng của thơ Đường như chấm phá, gợi tả, khơi gợi cảm nhận, đánh thức liên tưởng, thiết lập những mối quan hệ...đã gần gũi hơn với tư duy nghệ thuật của người Việt. Lớn lên trong môi trường văn hóa như vậy, học sinh lớp 10 có thể cảm và hiểu những hình ảnh, những lớp ý nghĩa của văn bản thơ Đường được giới thiệu không quá khó khăn như khi tiếp cận tác phẩm đến từ những nền văn hóa có nhiều khác biệt. Tóm lại, những cơ sở lí luận và thực tiễn mà chúng tôi phân tích ở trên có ý nghĩa nhắc nhở người dạy cần cân nhắc, xem xét những điều kiện khách quan và chủ quan ảnh hưởng tới sự lựa chọn phương pháp, hình thức, tiến trình dạy học thơ Đường trong chương trình Ngữ Văn 10, nắm vững và khai thác triệt để mặt tích cực của những cơ sở trên, người dạy và người học sẽ có con đường tiếp cận thơ Đường phù hợp. CHƯƠNG 2 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC DẠY HỌC NHÓM BÀI THƠ ĐƯỜNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 THPT (BAN CƠ BẢN, CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) Từ sự phân tích những cơ sở của hoạt động dạy học thơ Đường trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT hiện nay, kết hợp với thực tế công tác giảng dạy những năm vừa qua, với mong muốn góp một tiếng nói nhỏ trong đổi mới phương pháp dạy học Văn ở nhà trường phổ thông, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những đề xuất sau: I. ĐỔI MỚI TRONG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Tạo tâm lí thoải mái, hứng thú cho học sinh trước và trong suốt quá trình tiếp cận văn bản thơ Đường Tâm lí xem tác phẩm văn học nước ngoài là xa lạ, khó hiểu, học VHNN là nhiệm vụ bắt buộc trong khi không thi Đại học cao đẳng vào phần VHNN khiến học sinh học qua quít, chiếu lệ...là một thực tế tồn tại lâu nay. Bởi vậy, việc tạo ra tâm lí chờ đợi, đón nhận, khao khát chiếm lĩnh tri thức mới để làm giàu vốn văn học, văn hóa từ phía học sinh là điều giáo viên phải đặt ra, phải đạt tới từ trước khi bắt đầu bài học và trong suốt quá trình tổ chức hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài. Trong mối quan hệ hình tam giác mà ba đỉnh lần lượt là giáo viên - văn bản thơ Đường - học sinh thì người giáo viên phải là người chủ động thiết lập và thúc đẩy mối quan hệ ấy từ tĩnh sang động, kích thích được ý thức tham gia tích cực, có mục tiêu rõ ràng của học sinh gần như trùng khớp với chuẩn kiến thức - kĩ năng - thái độ mà bài học đề ra. Có thể khởi động tạo ra sự tương tác giữa ba chủ thể đó với nhau theo hướng sau: 1.1. Chuẩn bị chu đáo lời giới thiệu bài mới Giống như khi bắt đầu những giờ học văn bản văn học khác, lời giới thiệu bài mới khi dạy học thơ Đường phải có khả năng khơi gợi tâm lí cảm thụ, tạo tâm thế văn học cho học sinh. Ví dụ, lời vào bài “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng”; có giáo viên nêu lên câu hỏi về những bài thơ viết về tình bạn mà em đã học, nhận xét ngắn gọn về sự khác biệt trong cách diễn tả của từng nhà thơ. Câu hỏi này là một cây cầu nối tri thức đã biết với cái đang cần tìm hiểu phía trước của học sinh. Từ đó, giáo viên đặt ra vấn đề: từ ngàn năm trước, nhà thơ Lí Bạch cảm nhận và viết về tình bạn như thế nào, tiếng nói xưa ấy có còn gần gũi với chúng taThông qua cách đặt vấn đề này, người dạy định hướng cả hai vấn đề lớn về nội dung và nghệ thuật thơ, đồng thời hướng đến giáo dục về thái độ: dù trong hình thức thơ khác biệt, dù xa cách về thời gian hay không gian thì với con người, tình bạn luôn là một giá trị được trân trọng. Vào bài “Cảm xúc mùa thu”, có thể khơi gợi cảm nhận của học sinh về đặc trưng mùa thu ở đất nước nhiệt đới gió mùa Việt Nam, từ đó mở ra so sánh với mùa thu ở những nước hàn đới như Hàn Quốc, Trung Quốc rồi giới thiệu Cảm xúc mùa thu như một bức phác họa thâu tóm được thần thái mùa thu ở vùng núi rừng Trung Quốc xưa. Cũng có thể khởi đầu giờ học “Cảm xúc mùa thu” bằng câu chuyện nhuốm màu truyền thuyết về cái chết của Thi thánh Đỗ Phủ trên con thuyền nhỏ rách nát nơi xứ người, sau đó giới thiệu văn bản. Khi đó, sự cảm nhận của học sinh về hình ảnh “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” sẽ sâu sắc hơn, xúc động hơn. 1.2. Liên hệ, giới thiệu những giai thoại quanh văn bản Những câu chuyện mang tính truyền thuyết về sự ra đời, số phận văn bản, sự đáng giá phẩm bình của đương thời và hậu thế về văn bản luôn có sức hấp dẫn học sinh. Do đó, khi đọc hiểu bài thơ Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu, giáo viên có thể kể vắn tắt giai thoại Lý Bạch cũng từng đến lầu Hoàng Hạc, nảy sinh thi hứng muốn cất bút đề thơ nhưng khi thấy Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu trên vách chùa, Lý Bạch cảm khái thốt lên rằng: Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu ( Dịch thơ: Cảnh hay trước mắt nói không đặng Thôi Hiệu đề thơ ở trên đầu) rồi gác bút. Câu chuyện hẳn sẽ gây ngạc nhiên về sự khiêm tốn của Thi tiên Lý Bạch và nhất là giúp học sinh hình dung phần nào về tầm vóc kì diệu của bài Hoàng Hạc lâu. Nói chung, những giai thoại nhỏ về tác phẩm được đưa vào giờ học đúng lúc, đúng chỗ, đúng dung lượng cần thiết sẽ gợi hứng thú cho người học, mang tác phẩm đến gần cuộc đời hơn. 2. Chú trọng khâu đọc văn bản Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc cả ba bản: Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ. Phần phiêm âm cần kết hợp giữa đọc với giảng giải ý nghĩa của từ ngữ, hình ảnh, nhất là từ ngữ được xem là nhãn tự trong bài. Sau khi đọc, cần yêu cầu học sinh phát hiện và so sánh sự khác biệt giữa bản dịch thơ và nguyên tác. Hoạt động này sẽ giúp các em nhận thức đúng, đủ về những tầng ý nghĩa phát lộ ngay trên bề mặt và ẩn chứa trong bề sâu. Việc đọc, giảng giải từ ngữ có thể chiếm nhiều thời gian trên lớp. Để khắc phục điểu này, người giáo viên có kinh nghiệm dạy học cần đặt ra yêu cầu tự đọc văn bản trước khi tới lớp, quy định rõ ràng về công việc tập tóm tắt văn bản, nếu là văn bản tự sự, học thuộc lòng toàn bộ hoặc một đoạn trích, nếu là văn bản trữ tình. Sự hướng dẫn này tạo thành cách tiếp cận chủ động, có ý thức ở học sinh. 3. Khai thác văn bản dựa trên đặc trưng nghệ thuật tác phẩm trữ tình và đặc trưng của Đường thi 3.1. Đặc trưng về thể thơ Thơ Đường có hàng vạn bài nhưng tựu trung lại, thường được sáng tác theo ba thể: Đường luật, cổ phong, từ. Trong đó, phổ biến nhất là Đường luật với các thể: tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, bài luật (hay còn gọi là thơ trường thiên). Bài học về một số thể thơ được giới thiệu ở chương trình Ngữ Văn 11 nhưng khi dạy học nhóm bài thơ Đường, giáo viên có thể huy động vốn hiểu biết về thể thơ Đường luật của học sinh vì các em đã tiếp cận với thơ thất ngôn bát cú và thơ tứ tuyệt ở bậc THCS. 3. 2. Cấu tứ thơ Đường Một bài thơ trung đại nói chung và thơ Đường nói riêng đều theo nguyên lí cấu trúc như sau: bài thơ có hai phần khác nhau nhưng có quan hệ qua lại chặt chẽ. Đó là cảnh (hoặc cảnh và sự) và tình. Cảnh là một bức tranh hiện thực nào đó, sự là một sự việc nào đó. Cảnh và sự đóng vai trò gợi hứng, dẫn dắt tình. Tình là cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ. Nhờ có cảnh, sự gợi hứng mà tình bộc lộ. Nhờ có tình mà cảnh trở nên một hình tượng có ý nghĩa. Dựa trên đặc trưng cấu tứ trên, giáo viên định hướng học sinh trao đổi, tìm được yếu tố cảnh và tình trong các văn bản được giới thiệu. Ví dụ, bài thơ Nỗi oán của người phòng khuê mở đầu bằng một cảnh gợi cảm xúc: cảnh người thiếu phụ ngày xuân, soi gương trang điểm rồi lên lầu ngắm cảnh. Từ cảnh, một cách hết sức tự nhiên, hình ảnh màu dương liễu trở thành bản lề khép lại phần cảnh mở ra thế giới tâm trạng con người. Suy tư, xúc cảm trong nửa còn lại của bài thơ bộc lộ rất tự nhiên. Tỉ lệ số câu chữ dành cho tình cảnh, và sự trong mỗi bài thơ Đường là khác nhau. Chẳng hạn, “Cảm xúc mùa thu” có 4 câu đầu gợi tả cảnh sắc mùa thu ở vùng Vu Sơn, Vu Giáp - nơi nhà thơ đang lánh nạn. Hai câu 5, 6 dành cho cảm xúc: nỗi lòng thương nhớ quê hương và tâm sự u ẩn của nhà thơ trước thực tại. Nếu theo đúng kết cấu đề - thực - luận - kết thì đến hai câu kết, nhà thơ sẽ khái quát tình ý toàn bài. Nhưng hai câu kết đã cho thấy xu hướng quy các chức năng cho mỗi cặp câu theo tên gọi không phải bao giờ cũng đúng như vậy. Hai câu kết không vận động theo hướng giãi bày tâm sự mà lại quay về kể sự việc, cảnh vật: Hàn y xứ xứ thôi đao xích/Bạch đế thành cao cấp mộ châm. Cánh cửa tâm tình vừa hé mở trong hai câu 5, 6 dường như lại khép để người đọc qua cảm nhận cảnh đời thường ở thành Bạch Đế cuối thu để tìm đến mạch sâu trong tâm sự của Đỗ Phủ: niềm chua xót tủi hận khi mái đầu đã bạc mà đường công danh lại trắng tay, buồn thu trôi đi mà không thể níu kéo dòng thời gian, chỉ mong trở về cố hương mà phiêu dạt mãi không biết đâu là chốn dừng chân. Cấu tứ của Cảm xúc mùa
Tài liệu đính kèm:
- de_xuat_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_nhom_bai_tho_duong_trong.doc