Báo cáo Sáng kiến Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi trong trường mầm non

Báo cáo Sáng kiến Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi trong trường mầm non

Theo tiến sĩ Nguyễn Thu Cúc, chuyên gia tư vấn cho biết: “Kỹ năng sống không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em bao gồm những nội dung hết sức đơn giản, gần gủi với trẻ em, là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập”.

Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực giúp trẻ có được những nhận thức, kiến thức, hành vi, thái độ, kỹ năng thích hợp.

Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trước hết cần cung cấp các kiến thức cần thiết nhưng nếu chỉ dạy trẻ theo kiểu giáo điều, lý thuyết thì những kiến thức đó sẽ khô cứng và không phát huy được giá trị thực tiễn. Chúng ta có thể thấy rất nhiều trẻ em có thể nói trôi chảy về các hành vi văn hóa như gặp người lớn phải chào hỏi, phải vứt rác đúng nơi quy định. Nhưng khi vào tình huống thực tế thì cháu đó lại chạy đi khi thấy khách tới chơi hoặc bẽn lẽn nép vào lưng mẹ mà không chào hỏi gì? Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải gắn với các việc làm, tình huống cụ thể: trẻ được quan sát người khác làm, trẻ được tự thực hiện để trải nghiệm. Hàng ngày chúng ta giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua nhiều hình thức khác nhau.

 

docx 25 trang thanh tú 22 08/10/2022 95310
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Sáng kiến Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi trong trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 	1
1. Lý do chọn đề tài: 	1
2. Mục đích của đề tài:	2
3. Đối tượng nghiên cứu: 	2
4. Phương pháp nghiên cứu:	2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:	3
1. Cơ sở lý luận: 	3
2. Cơ sở thực tiễn:	3
3. Kết quả khảo sát thực trạng:	4
4. Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé trong trường mầm non:
Biện pháp 1: Xác định những kỹ năng cơ bản và xây dựng kế hoạch lồng ghép để dạy kỹ năng cho trẻ
Biện pháp 2: Dạy trẻ những kỹ năng sống cơ bản trong cuộc sống hàng ngày.
Biện pháp 3: Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học.
Biện pháp 4: Giáo dục kỹ năng sống mọi lúc, mọi nơi.
Biện pháp 5: Kết hợp với các bậc phụ huynh để dạy kỹ năng sống cho trẻ 
5. Hiệu quả đạt được:	13
III. KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ:	15
1. Kết luận:	15
2. Kiến nghi:	16
IV. PHỤ LỤC:
Hình ảnh minh họa
PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI SKKN.
PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG ĐẾN THỜI ĐIỂM HIỆN TẠI
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
	Mỗi người chúng ta sinh ra đều không có khả năng làm được mọi thứ một cách ngẫu nhiên. Đó là kết quả của quá trình tiếp thu, thích nghi với các tri thức, kinh nghiệm lâu dài. Và lẽ dĩ nhiên, trẻ em sinh ra không thể tự nhiên có được kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày ý kiến, kỹ năng tự chăm sóc bản thânCàng có những kỹ năng này sớm bao nhiêu thì trẻ càng có nền tảng vững chắc để phát triển toàn diện.
Việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là dạy kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp tác chia sẻ Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp
Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ sẽ giúp trẻ sớm bắt kịp với cuộc sống và khả năng phát triển của bản thân. Có được kỹ năng sống tốt đẹp, trẻ sẽ hình thành được nhân sinh quan, thái độ sống tích cực và hành vi đúng đắn. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống.
Kỹ năng sống được áp dụng theo nhiều cách khác nhau. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non được hiểu là giáo dục những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển tải những gì mình biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận được (thái độ), và những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm như thế nào ( hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Có thể giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua một số trò chơi.
Với trẻ 3-4 tuổi thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ bằng các công việc đơn giản như trẻ biết chào hỏi lễ phép, rõ ràng, biết tự phục vụ vệ sinh cá nhân trẻ, biết chơi cùng bạn trong nhóm. Để làm được điều đó bản thân trẻ phải được thường xuyên luyện tập thông qua các hoạt động hàng ngày trên lớp từ đó hình thành ở trẻ thái độ tích cực trong cuộc sống. Để trẻ 3 tuổi có kỹ năng sống việc quan trọng là người lớn phải tạo được môi trường giáo dục cho trẻ. Làm được việc này bản thân mỗi giáo viên phải xác định được kỹ năng sống của từng độ tuổi để từ đó có các phương pháp thích hợp cho việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Chính vì vậy việc đi sâu lồng ghép dạy kỹ năng sống cho trẻ phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi mầm non là vô cùng cần thiết và đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi trong trường mầm non”. làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm cho mình.
2. Mục đích đề tài: Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi trong trường mầm non.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Phạm vi nghiên cứu: Trẻ 3-4 tuổi lớp C2 Trường mầm non Cổ Bi.
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021.
4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tôi chọn các phương pháp nghiên cứu như sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận 
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài như:
Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
Thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài
Đọc, tổng hợp, phân tích sử lý thông tin để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nhằm giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu
4.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài như:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp quan sát và ghi chép
+ Phương pháp đàm thoại
+ Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
+ Phương pháp tổng kết
4.3 Phương pháp tổng kết và so sánh kết quả.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Theo tiến sĩ Nguyễn Thu Cúc, chuyên gia tư vấn cho biết: “Kỹ năng sống không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em bao gồm những nội dung hết sức đơn giản, gần gủi với trẻ em, là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập”.
Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực giúp trẻ có được những nhận thức, kiến thức, hành vi, thái độ, kỹ năng thích hợp.
Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trước hết cần cung cấp các kiến thức cần thiết nhưng nếu chỉ dạy trẻ theo kiểu giáo điều, lý thuyết thì những kiến thức đó sẽ khô cứng và không phát huy được giá trị thực tiễn. Chúng ta có thể thấy rất nhiều trẻ em có thể nói trôi chảy về các hành vi văn hóa như gặp người lớn phải chào hỏi, phải vứt rác đúng nơi quy định... Nhưng khi vào tình huống thực tế thì cháu đó lại chạy đi khi thấy khách tới chơi hoặc bẽn lẽn nép vào lưng mẹ mà không chào hỏi gì? Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải gắn với các việc làm, tình huống cụ thể: trẻ được quan sát người khác làm, trẻ được tự thực hiện để trải nghiệm. Hàng ngày chúng ta giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua nhiều hình thức khác nhau....
Để đứa trẻ có thể trở thành cá thể độc lập, tự chủ, sống khỏe, sống tốt và thành công trong tương lai thì ngay từ nhỏ cần giáo dục cho trẻ kỹ năng sống. Giáo dục kỹ năng sống góp phần phát triển các hành vi xã hội tích cực, nâng cao chất lượng cuộc sống và đẩy nhanh sự tiến bộ của xã hội. Đó là kỹ năng sống, hay nói cách khác kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh cho phép mỗi cá nhân đối mặt với những thách thức của cuộc sống hàng ngày
2. Cơ sở thực tiễn:
	Trong những năm qua cùng với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của đội ngũ các bộ giáo viên chất lượng giáo dục đã từng ngày thay đổi. Đặc biệt là chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Các kỹ năng sống của trẻ ngày càng tiến bộ hơn. Nhưng trong thực tế thực trạng về hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vẫn còn nhiều bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau nên chất lượng còn chưa được thực sự như mong muốn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
* Về trẻ: Các cháu cùng một độ tuổi trong lớp đa số là con em trong địa phương nên có nhiều thuận lợi trong việc trẻ đi học đạt chuyên cần cao.
* Về giáo viên: Giáo viên trong lớp đều có trình độ đại học, yêu nghề, mến trẻ, có năng lực chuyên môn có tinh thần học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn của mình.
* Về phụ huynh: Các bậc phụ huynh đã quan tâm hơn đến việc học tập của con em mình, cũng như việc đóng góp ngày công lao động tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch đẹp cho nhà trường. Ngoài ra các bậc phụ huynh còn có sự quan tâm chia sẻ, trao đổi về khả năng, sở thích cũng như những hạn chế của con em mình giúp giáo viên có những hiểu biết về trẻ và có những biện pháp dạy trẻ phù hợp hơn.
* Về phía nhà trường: Ban giám hiệu luôn quan tâm và chỉ đạo kịp thời để các hoạt động của nhà trường đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao trong các hoạt động, các phong trào, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng cũng như xây dựng các tiết dạy tốt và cử giáo viên đi dự các tiết, các chuyên đề phòng tổ 
Môi trường bên ngoài cho trẻ hoạt động ngoài trời phong phú, rộng rãi, trang
thiết bị ngoài trời đầy đủ, đảm bảo an toàn cho trẻ chơi và hoạt động hàng ngày. 
b. Khó khăn:
* Đối với trẻ: Vốn hiểu biết của trẻ về thiên nhiên, về môi trường xung quanh của trẻ còn hạn chế, do vốn từ của trẻ chưa phong phú, trẻ chưa biết cách biểu đạt ý thích bằng ngôn ngữ được, hay đôi khi trẻ nhút nhát không chịu nói, không giao tiếp với mọi người xung quanh. Nên việc khám phá môi trường xung quanh trẻ gặp rất nhiều khó khăn.
Trẻ chưa tập chung chú ý quan sát, thực hành trải nghiệm. Do đa số trẻ trong lớp còn nhú nhát chưa mạnh dạn tự tin, ngôn ngữ của trẻ vẫn còn trẻ nói ngọng. Nhưng điều khó khăn hơn cả là điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn chưa được đổi mới nên việc dạy kỹ năng sống cho trẻ qua công nghệ thông tin còn hạn chế, chưa thực sự thoả mãn nhu cầu hoạt động của cô và trẻ.
* Về phía phụ huynh: các bậc cha mẹ thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ, luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế, khó khăn cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra.
3. Kết quả khảo sát thực trạng.
Từ thực tế trên, ngay từ đầu năm học khi sĩ số lớp đã ổn định tôi tiến hành khảo sát từng trẻ để tìm ra một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả.
Bảng khảo sát trên trẻ đầu năm tổng số: 33 cháu
STT
NỘI DUNG KHẢO SÁT
KẾT QUẢ
Tốt %
Khá %
TB %
1
Tính tự tin, tự lập
7/33=21%
9/33=27%
17/33=52%
2
Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi
5/33=15%
8/33=24%
20/33=61%
3
Kỹ năng hợp tác
4/33=12%
11/33=33%
18/33=55%
4
Kỹ năng xử lý tình huống
7/33=21%
9/33=27%
17/33=52%
5
Kỹ năng giữ an toàn cá nhân.
4/33=12%
7/33=21%
22/33=67%
6
Sự tò mò và khả năng sáng tạo.
7/33=21%
8/33=24%
18/33=50%
7
Kỹ năng quan hệ xã hội
7/33 =21%
9/33 =27%
17/33 =52%
*Nhận xét:
Qua khảo sát đầu năm kết quả khảo sát trên cho thấy kỹ năng sống của trẻ lớp tôi phụ trách còn hạn chế. 
Chính vì vậy là giáo viên phụ trách lớp tôi đã trăn trở và tìm ra một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm cải thiện tốt hơn về kỹ năng sống cho trẻ ở lớp tôi được tốt hơn.
4. Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé trong trường mầm non.
* Học tập nâng cao trình độ chuyên môn
Việc học tập để nâng cao trình độ chuyên môn của mỗi người đặc biệt là giáo viên là việc làm cần thiết và không thể thiếu đươc.Là một giáo viên có bề dày kinh nghiệm trong công tác nhưng bản thân tôi luôn có tinh thần học tập để nâng cao trình độ chuyên môn vì tôi luôn nghĩ rằng học không bao giờ là đủ càng học càng tích lũy được nhiều kinh nghiêm. Chính vì vậy tôi thường xuyên nghiên cứu tài liệu học hỏi bạn bè đồng nghiệp cũng như tham khảo các tài liệu có liên quan đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cũng như các hoạt động các bộ môn khác trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Ngoài ra tôi còn tham gia đầy đủ các tiết dạy mẫu do phòng và trường tổ chức 
Biện pháp 1: Xác định những kỹ năng cơ bản và xây dựng kế hoạch lồng ghép để dạy kỹ năng cho trẻ
Trước khi thực hiện một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại lớp thì việc đầu tiên tôi làm là xá định những kỹ năng sau để dạy trẻ:
* Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi.
* Kỹ năng hợp tác.
* Tính tự tin, tự lập.
* Kỹ năng giữ an toàn cá nhân.
* Sự tò mò và khả năng sáng tạo.
* Kỹ năng xử lý tình huống.
* Kỹ năng quan hệ xã hội.
- Khi đã xá định được các kỹ năng để dạy trẻ tôi tiến hành xây dựng kế hoạch.
- Căn cứ vào kế hoạch năm học của BGH nhà trường, ngay từ đầu năm học, khi tiến hành xây dựng kế hoạch cá nhân tôi đã xác định việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại lớp mẫu giáo bé trong các hoạt động là một nhiệm vụ thường xuyên . 
- Căn cứ vào kế hoạch thực hiện dạy kỹ năng cho trẻ của nhà trường các chủ đề theo quý, tháng, tuầnvà các ngày hội, ngày lễ trong năm, tôi đã xác định kế hoạch giáo dục hướng dẫn trẻ thực hiện như sau:
ST
Tháng
Nội dung
1
8
Dạy trẻ làm quen trường lớp
2
9
Kỹ năng giao tiếp,chào hỏi:
3
10
Tính tự tin, tự lập
4
11
Kỹ năng giữ an toàn cá nhân.
5
12
Kỹ năng xử lý tình huống
6
1
Kỹ năng hợp tác
7
2
Sự tò mò và khả năng sáng tạo.
8
3
Kỹ năng quan hệ xã hội
9
4
Ôn những kỹ năng đã dạy trẻ
10
5
Đánh giá, tổng kết
Biện pháp 2: Dạy trẻ những kỹ năng sống cơ bản trong cuộc sống hàng ngày.
Đối với tâm sinh lý trẻ mầm non thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá, và đặc biệt đối với trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé, các cháu mới từ lớp nhà trẻ bước vào tuổi mẫu giáo để dạy trẻ làm quen với một số kỹ năng sống đơn giản đòi hỏi mỗi giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm sinh lí của từng độ tuổi nói chung và đặc điểm tâm lí của từng cá nhân trẻ nói riêng để từ đó xác định các kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ để tiến hành lồng ghép vào các hoạt động trong ngày. Với trẻ 3 tuổi thì việc tiến hành lồng ghép các kỹ năng sống vào các hoạt động nó chỉ diễn ra đơn giản, nhẹ nhàng phù hợp với đặc thù của độ tuổi. Qua thực tế rút ra từ trẻ trong lớp tôi thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, kỹ năng quan hệ xã hội, tính tự tin, tự lập, sự tò mò, tính trách nhiệm, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .
* Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi: Giao tiếp là nhu cầu không thể thiếu của con người.Với trẻ nhỏ 3 tuổi cũng vậy phát triền kỹ năng giao tiếp là hướng dẫn trẻ biết cách giao tiếp có lễ độ với người lớn, đúng mực với bạn bè và mọi người xung quang giúp trẻ tự tin hơn trong khi giao tiếp, thông qua giao tiếp cô giáo và người lớn cần cung cấp và làm tăng phong phú vốn từ của trẻ, tập cho trẻ dần biết cách diễn đạt suy nghĩ, ý tưởng của mình một cách chính xác, mạch lạc. Dạy trẻ những quy tắc giao tiếp căn bản phù hợp với khả năng, biết lắng nghe, biết phản hồi, sử dụng từ xưng hô phù hợp với đối tượng giao tiếp, theo dõi thái độ của người đối thoại và điều chỉnh hành vi ngôn ngữ của mình cho phù hợp
Ví dụ: Ở giờ đón trẻ tôi thấy trẻ đến lớp, ra về nhưng không chào cô, chào bố mẹ thì tôi đặt câu hỏi với trẻ khi đến lớp con gặp cô thì thế nào mới ngoan thì chắc chắn trẻ sẽ trả lời là con chào cô ạ. Khi trẻ trả lời như vậy thì tôi lại nhắc nhở và dạy trẻ con phải nói rằng con chào cô ạ. Và tôi còn dạy trẻ khi bố mẹ về con khoanh tay chào con chào bố, mẹ ạ như vậy mới là bé ngoan và lễ phép con nhớ chưa.
H1.Dạy trẻ kỹ năng chào cô, chào bố mẹ. 
* Sự hợp tác: Đây là một loại kỹ năng sống quan trọng của trẻ 3-4 tuổi vì ở độ tuổi này trẻ đã biết thể hiện nét mặt những tình cảm và sự quan tâm lẫn nhau trong đám bạn bè, trẻ đã biết thể hiện những mong muốn và cảm xúc của mình trong công việc. tôi đã chú ý rèn luyện kỹ năng này cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. 
Ví dụ: Khi trẻ gặp khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tôi sẽ gợi mở để trẻ tìm ra cách giải quyết như: Nếu con không chở hết được số hàng này theo cô con nên rủ bạn nữa cùng làm? hoặc: trong giờ ăn trẻ đi lấy đồ cùng cô cô đề nghị con và các bạn cùng làm thì công việc sẽ nhanh hơn. Tôi luôn chú ý hướng lái để trẻ thể hiện được kỹ năng hợp tác chung sức để hoàn thành công việc bằng các câu hỏi gợi mở thông qua tất cả các hoạt động hàng ngày đặc biệt là hoạt động vui chơi ở các góc.
* Kỹ năng bảo vệ môi trường sống: với trẻ nhỏ bảo vệ môi trường sống thể hiện trong những việc làm đơn giản hàng ngày: không vứt rác bừa bãi, ăn song bỏ vỏ vào thùng rác nơi quy định, không lãng phí đồ ăn, biết tắt điện, khóa vòi nước khi không sử dụng, thích trồng và chăm sóc cây, chăm sóc con vật,... từ những hành vi sống tích cực có văn hóa và sống hòa bình với môi trường mà trẻ được thực hiện hàng ngày sẽ hình thành thế hệ công dân biết yêu và bảo vệ môi trường.
H2.Trẻ bỏ rác vào thùng đúng nơi quy định
 * Kỹ năng quan hệ xã hội: Kỹ năng này trẻ phải học rất nhiều trong những năm đầu đời: trẻ học cách làm chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng như của người khác, cách chia sẻ luân phiên và học cách ứng xử lịch thiệp và tôn trọng người khác bằng cách lắng nghe người khác nói, chấp nhận sự khác biệt và quyết định một cách công bằng.
Trẻ cần học cách kết bạn, duy trì sự tương tác và mối quan hệ tích cực với bạn cùng lứa.
Ví dụ: Qua các hoạt động học, giờ chơi, hoạt động góc, các trò chơiTrẻ được chơi cùng bạn, được trao đổi ý kiến hay chia sẻ đồ chơi với bạn để rồi dần dần hình thành ở trẻ các kỹ năng quan hệ xã hội đơn giản. 
*Tính tự tin, tự lập: Đặc điểm của trẻ nhỏ là cần được yêu thương và tôn trọng vì vậy tôi luôn chú ý đến việc phát triển sự tự tin ở trẻ, giúp trẻ mạnh dạn, không rụt rè, không sợ nói trước đông người, trẻ cảm thấy tự tin trong mọi tình huống, dám làm điều mình nghĩ và biết bày tỏ cảm xúc của mình mà không e ngại sợ sệt. Song song với việc phát triển tính tự tin tôi luôn chú ý rèn luyện cho trẻ tính tự lập để trẻ không phụ thuộc hay ỉ lại người lớn nữa. Trẻ biết làm mọi việc theo khả năng riêng của mình, có thể cân nhắc những lựa chọn và tự mình quyết định mọi việc.
*Tính tò mò: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này. Trẻ nhỏ thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu là sự khát khao được học. Bản thân tôi luôn đưa ra nhiều ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ, như thông qua các câu truyện, bài thơ hoặc cho trẻ nhặt rau giúp các cô nhà bếp. Tôi luôn lồng ghép đặt các câu hỏi mở để kích thích trí tò mò, dần hình thành ở trẻ các kỹ năng sáng tạo, tìm tòi khám phá về sau. 
H3.Dạy trẻ kỹ năng nhặt rau
*Kỹ năng xử lý tình huống: Trẻ 3 tuổi chưa có kỹ năng xử lý tình huồng mà trẻ mới chỉ biết các việc xử lý đơn giản như nhường bạn đồ chơi, biết giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn... Chính vì vậy tôi luôn lồng ghép giáo dục trẻ trong các hoạt động trong ngày qua đó giúp trẻ ghi nhớ và có thái độ xử lý đúng trong các tình huống trong cuộc sống. 
*Kỹ năng giữ an toàn cá nhân: Trẻ biết kêu cứu khi gặp nguy hiểm, biết đề nghị sự giúp đỡ của người khác khi cần thiết, biết tránh xa những đồ vật và những nơi nguy hiểm.như không chơi gần ao hồ, không chơi gần nơi để nước nóng...
Biện pháp 3: Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học.
Để thực hiện tốt việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các môn học tôi không chỉ nắm được các nội dung mà còn biết cách lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động dạy học như thế nào cho phù hợp. Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau:
Thông qua việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. 
Ở chủ đề gia đình khi dạy trẻ câu truyện “Nhổ củ cải”. Ngoài hệ thống câu hỏi đàm thoại trong câu truyện, Tôi còn đặt thêm một câu hỏi để cho trẻ trải nghiệm như: “Vì sao tất cả mọi thành viên trong gia đình ông già đều phải giúp ông nhổ củ cải?”. Hay qua bài thơ “cảm ơn” các con thấy Sóc con là người như thế nào? Nếu là con thì con có giúp bạn như Sóc không? từ câu hỏi đó tôi sẽ cho trẻ được nói ra suy nghĩ của mình dưới sự gợi ý của cô giáo, về những gì trẻ định làm để giúp bạn. Đó cũng là một cách rất hiệu quả để rèn cho trẻ kỹ năng tư duy cho trẻ.
Cũng ở chủ đề gia đình khi tôi dạy trẻ bài thơ “ Chia bánh” Ngoài những hệ thống câu hỏi đàm thoại trong bài thơ, tôi còn đặt thêm một số câu hỏi cho trẻ trải nghiệm như:“ Nếu con là chị con sẽ làm gì cho em của mình?”. Từ câu hỏi đó trẻ cũng sẽ nói lên được suy nghĩ cả mình về cách chăm sóc em, nhường nhịn em. Và ngược lại tôi lại đưa ra một câu hỏi trải nghiệm nữa đó là: “Nếu con là em thì con sẽ làm gì khi được chị chia phần bánh to hơn?” từ c

Tài liệu đính kèm:

  • docxbao_cao_sang_kien_mot_so_bien_phap_long_ghep_giao_duc_ky_nan.docx