Vận dụng nội dung dạy học tích hợp vào dạy - Học tiết 41, bài 41: Môi trường và các nhân tố sinh thái nhằm nâng cao chất lượng dạy- học môn Sinh học 9 ở trường THCS Thiệu Giang

Vận dụng nội dung dạy học tích hợp vào dạy - Học tiết 41, bài 41: Môi trường và các nhân tố sinh thái nhằm nâng cao chất lượng dạy- học môn Sinh học 9 ở trường THCS Thiệu Giang

 Mục tiêu môn Sinh học THCS nhằm trang bị những kiến thức cơ bản, tương đối hoàn chỉnh về cấu tạo, hoạt động của các cơ thể sống, thông qua các đại diện thuộc các nhóm vi sinh vật, nấm, thực vật, động vật và con người, bước đầu hiểu được các quy luật cơ bản của quá trình sống, của hiện tượng di truyền và biến dị, của mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật và với môi trường sống, về sự phát triển của thế giới sinh vật, làm cơ sở cho việc hiểu biết những nguyên tắc kĩ thuật trong sản xuất có liên quan đến sinh học, các biện pháp giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường, nhằm bảo vệ tăng cường sức khỏe để có thể tiếp tục học tập lên trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề hoặc đi vào cuộc sống. Với mục tiêu đó, Sinh học là một bộ môn có nhiều kĩ năng tích hợp các nội dung như Giáo dục bảo vệ môi trường, Sức khỏe sinh sản, Giáo dục phòng chống ma túy cho HS .

doc 21 trang thuychi01 6502
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Vận dụng nội dung dạy học tích hợp vào dạy - Học tiết 41, bài 41: Môi trường và các nhân tố sinh thái nhằm nâng cao chất lượng dạy- học môn Sinh học 9 ở trường THCS Thiệu Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
 Mục tiêu môn Sinh học THCS nhằm trang bị những kiến thức cơ bản, tương đối hoàn chỉnh về cấu tạo, hoạt động của các cơ thể sống, thông qua các đại diện thuộc các nhóm vi sinh vật, nấm, thực vật, động vật và con người, bước đầu hiểu được các quy luật cơ bản của quá trình sống, của hiện tượng di truyền và biến dị, của mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật và với môi trường sống, về sự phát triển của thế giới sinh vật, làm cơ sở cho việc hiểu biết những nguyên tắc kĩ thuật trong sản xuất có liên quan đến sinh học, các biện pháp giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường, nhằm bảo vệ tăng cường sức khỏe để có thể tiếp tục học tập lên trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề hoặc đi vào cuộc sống. Với mục tiêu đó, Sinh học là một bộ môn có nhiều kĩ năng tích hợp các nội dung như Giáo dục bảo vệ môi trường, Sức khỏe sinh sản, Giáo dục phòng chống ma túycho HS.
Nhưng dù tích hợp nội dung nào đi nữa thì giáo viên cũng phải đảm bảo cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng cơ bản của môn Sinh học cho học sinh, vì vậy việc tích hợp các nội dung khác phải phù hợp trong dạy học sinh học.
Trong các trường học, trong đó có trường THCS Thiệu Giang đã đưa việc tuyên truyền nội dung giáo dục bảo vệ môi trường và các nhân tố sinh thái vào trong chương trình học bằng nhiều hình thức, nhà trường và giáo viên đã tổ chức nhiều hoạt động giáo dục bỗ ích, lí thú giúp học sinh nắm vững kiến thức về môi trường và các nhân tố sinh thái, tuy nhiên một số GV đã có sự tích hợp nội dung này vào trong bài giảng của mình mang lại hiệu quả chưa cao, bởi vì GV chỉ mới chú ý dạy kiến thức môn học mình phụ trách chưa chú ý đến kiến thức được lồng ghép giữa các bài học, môn học với nhau vì vậy dạy học tích hợp trong trường THCS Thiệu Giang ở các môn học khác nói chung và môn sinh học nói riêng còn mang lại hiệu quả chưa cao với lí do đó bản thân tôi đã tìm hiểu và vận dụng nội dung dạy học tích hợp vào trong quá trình dạy- học giúp GV hiểu rõ được dạy học tích hợp là định hướng dạy học trong đó GV tổ chức, hướng dẫn để HS biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, đời sống thông qua đó hình thành những kĩ năng, kiến thức mới; phát huy được các năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tự học, năng lực thẩm mỹ, năng lực tính toán, năng lực công nghệ thông tin và truyền thông, nhất là năng lực tự giải quyết vấn đề trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống, đồng thời biết sống yêu thương, sống tự chủ, sống có trách nhiệm hơn với bản thân và cộng đồng Vì vậy khi dạy học tích hợp nhằm đáp ứng yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực của HS, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu HS vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi giải quyết các vấn đề thực tiễn bao gồm cả Tự nhiên và Xã hội, đòi hỏi HS phải vận dụng kiến thức tổng hợp liên quan đến nhiều môn học, vì vậy dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp. Vì nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng và rất thiết thực trong thực tế giảng dạy và để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã hội. Trong đề tài nghiên cứu này tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ về: “Vận dụng nội dung dạy học tích hợp vào dạy- học tiết 41, bài 41: Môi trường và các nhân tố sinh thái nhằm nâng cao chất lượng dạy- học môn Sinh học 9 ở trường THCS Thiệu Giang”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đối với GV nghiên cứu để xác định tầm quan trọng của nội dung dạy học tích hợp vào trong giảng dạy bộ môn sinh học trong trường THCS Thiệu Giang nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Cung cấp một số địa chỉ và nội dung tích hợp trong chương trình Sinh học 9 và các môn học Địa lí, Giáo dục công dân, Hóa học, Lịch sử, Ngữ văn giúp học sinh hướng thú hơn, tích cực hơn trong quá trình tiếp nhận tri thức và kiến thức về môi trường và các nhân tố sinh thái. Đồng thời giúp các em có thêm những kĩ năng sống cơ bản, biết cách giữ gìn và bảo vệ môi trường sống, bồi dưỡng thêm tình yêu thiên nhiên, hiểu rõ giá trị của môi trường và các nhân tố sinh thái đối với đời sống con người và các sinh vật.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung dạy học tích hợp vào dạy- học tiết 41, bài 41: Môi trường và các nhân tố sinh thái nhằm nâng cao chất lượng dạy- học môn Sinh học 9 ở trường THCS Thiệu Giang 
- Học sinh lớp 9A, 9B trường THCS Thiệu Giang.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: 
Trong phạm vi của đề tài này tôi đã lựa chọn một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và thực nghiệm
- Phương pháp tích hợp, nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp dạy học môn học Sinh học, Địa lí, GDCD, Lịch sử, Ngữ văn.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
2.1.1. Tích hợp trong dạy học sinh học:
- Trong dạy học, tích hợp có thể được coi là sự liên kết các đối tượng giảng dạy, học tập trong cùng một kế hoạch hoạt động để đảm bảo sự thống nhất, hài hòa, trọn vẹn của hệ thống dạy học nhằm đạt mục tiêu dạy học tốt nhất. Dạy học tích hợp là quá trình dạy học mà ở đó các nội dung, hoạt động dạy kiến thức, kĩ năng, thái độ được tích hợp với nhau trong cùng một nội dung và hoạt động dạy học để hình thành và phát triển năng lực thực hiện hoạt động cho người học, tạo ra mối liên kết giữa các môn học và tri thức, giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo và tính tích cực trong học tập. Tích hợp là một trong những su thế dạy học hiện đại, tiên tiến đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Tích hợp có thể xem là nguyên tắc tổng quát để xây dựng cả hệ thống chương trình. “Trong giáo dục hiện đại, tích hợp là một phương hướng nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ của các môn, các phân môn khác nhau theo những hình thức, mô hình cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu cầu cụ thể”. Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, coi người học là trung tâm thì dạy học theo quan điểm tích hợp đang ngày càng trở thành xu thế dạy học mang lại hiệu quả cao.
- Tích hợp trong dạy học Sinh học: Thời gian qua, việc tích hợp trong giờ học sinh học được thực hiện khá hiệu quả với nhiều nội dung và hình thức tích hợp. GV đã gắn bài học với đời sống xã hội như giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục bảo vệ đa dạng hệ sinh thái, giáo dục an toàn giáo thông, Sức khỏe sinh sản, bảo vệ di tích lịch sử danh lam thắng cảnh,. Việc tích hợp đã mang đến cho giờ học không khí sôi nổi, hào hứng, mang tính thực tiễn cao hơn. Sự hiểu biết của các em được mở rộng, nó không còn gò bó ở phạm vi môn Sinh học. Cũng vì vậy mà số học sinh có hứng thú với bộ môn cũng tăng hơn.
2.1.2. Tích hợp giáo dục nội dung môi trường và các nhân tố sinh thái trong giờ dạy học Sinh học 9 ở trường THCS Thiệu Giang.
- Hiện nay chúng ta đang sống trong thế giới của các bộ môn khoa học ngày càng ăn nhập vào nhau, vì vậy ngày càng cần những nhóm làm việc đa môn và đòi hỏi con người cần phải đa năng. Nếu từ khi còn nhỏ tuổi học sinh quen tiếp cận những khái niệm một cách rời rạc, học sinh có nguy cơ sau này tiếp tục suy luận theo kiểu kép kín. Trong khi đó đòi hỏi của xã hội lại cần những người có năng lực và trình độ chuyên môn ngày càng cao.Từ thực tiễn giảng dạy kết hợp với dự giờ của đồng nghiệp ở trường THCS Thiệu Giang, tôi nhận thấy hiện nay GV đã và đang áp dụng nội dung dạy học tích hợp vào trong giảng dạy. Tuy nhiên việc áp dụng còn lúng túng đặc biệt là biện pháp xây dựng câu hỏi có sẵn nhiều khi chưa sát với đối tượng HS, không kích thích phát huy được năng lực, sáng tạo của HS làm cho HS thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức. Để khắc phục điều này, các GV trong trường đã vận dụng nội dung dạy học tích hợp vào trong các tiết dạy của mình trong đó có môn Sinh học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
- Mục tiêu vận dụng nội dung dạy học tích hợp vào dạy học bài 41: Môi trường và các nhân tố sinh thái: 
Việc tích hợp các kiến thức của các môn học Sinh học, Địa lí, GDCD, Lịch sử, Ngữ văn và trong bài học này sẽ giúp học sinh nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường và các nhân tố sinh thái, đồng thời giúp học sinh biết vận dụng kiến thức đã học vào những trường hợp cụ thể, có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống của các em.
- Một số nội dung và địa chỉ có thể tích hợp trong bài 41. Môi trường và các nhân tố sinh thái:
TT
Tên bài
Địa chỉ tích hợp
1
Môi trường và các nhân tố sinh thái (Sinh học 9)
- Phần bài mới
- Phần kiểm tra đánh giá
2
- Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 (Lịch sử 9)
- Chiến tranh thế giới lần thứ hai(1939 - 1945) (Lịch sử 8)
- Mỹ rãi chất độc da cam xuống Việt Nam
- Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản
- Phần bài giảng
3
Tinh bột và xenlulozo (Hóa học 9)
- Phản ứng quang hợp của lá cây
- Phần bài giảng
4
Bảo vệ tài nguyên sinh vật Việt Nam (Địa lí 8)
- Vai trò của môi trường
- Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
- Phần bài giảng
5
Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên (GDCD 7)
- Luật bảo vệ môi trường
- Phần bài giảng
6
 Thời kì nguyên thủy (Lịch sử 6) và Tác động của con người tới môi trường (Sinh học 9) 
- Tác động của con người tới môi trường qua các thời kì lịch sử.
- Phần bài giảng
7
Thời tiết khí hậu nhiệt độ không khí (Địa lí 6)
- Tìm hiểu thời tiết và khí hậu, sự thay đổi thời tiết khí hậu.
- Phần bài giảng
8
Văn học: Bài Hạt gạo làng ta. (Tiếng việt lớp 5)
- Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái lên đời sống sinh vật.
- Phần bài giảng , giới thiệu chuyển hoạt động
2.1.3. Nguyên tắc tích hợp
- Dạy học theo hướng tích hợp là sự kết hợp có hệ thống các kiến thức có liên quan (hay còn gọi là kiến thức cần tích hợp) và kiến thức môn học thành một nội dung thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau dựa trên những mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đưa vào bài học.Như vậy, cần phải căn cứ vào nội dung bài học dể lựa chọn kiến thức tích hợp có liên quan. Việc đưa ra kiến thức tích hợp vào kế hoạch dạy học cần dựa vào các nguyên tắc sư phạm sau:
Không làm thay đổi tính đặc trưng của môn học, như không biến bài dạy Sinh học thành bài giảng Lich sử, Địa lí,... hay thành bài giáo dục các vấn đề khác (dân số, sức khỏe sinh sản,...).
 Khai thác nội dung cần tích hợp một cách có chọn lọc, có tính hệ thống, đặc trưng.
Đảm bảo tính vừa sức. Dạy học tích hợp phải phát huy cao tính tích cực và vốn sống của HS.
- Việc lựa chọn nội dung giáo dục môi trường và các nhân tố sinh thái vào môn Sinh học 9 ở trường THCS cần tuân theo một số nguyên tắc sau:
Nội dung được lựa chọn dạy phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí và sự phát triển của học sinh THCS.
Nội dung lựa chọn gắn với chương trình, SGK sinh học 9.
Trên cơ sở các mục tiêu, nội dung chung tôi đã xác định được mục tiêu, nội dung của bài học; đồng thời đã đảm bảo tính kế thừa giữa các môn học với nhau.
Các nội dung được lựa chọn trong tiết học là rất thiết thực, gần gũi trong đời sống và sản xuất.
2.1.4. Cách thức tích hợp. 
Trong môn học mình dạy ở mỗi tiết học GV có thể tích hợp theo nhiều cách thức khác nhau, lựa chọn cách nào là tùy thuộc vào nội dung cụ thể từng phần, từng bài. GV có thể tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài, giảng bài mới, kiểm tra- đánh giá. Khi thực hiện tích hợp đòi hỏi GV phải khéo léo không làm ảnh hưởng đến nội dung của bài. Cách thức tích hợp chủ yếu là GV liên hệ mở rộng hoặc tiến hành phát vấn-đàm thoại với học sinh. Muốn việc tích hợp có hiệu quả cả GV và HS đều phải có tâm thế chủ động. Nghĩa là GV phải chuẩn bị chu đáo và gợi ý cho học sinh tìm hiểu tư liệu ở nhà nếu là những vấn đề khó, mới lạ với các em.
2.1.5. Phương pháp tích hợp. 
 - Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là lồng ghép nội dung tích hợp vào các bài dạy, tùy theo bài học mà lồng ghép tích hợp ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận hay là toàn phần,( Phần nội dung bài học, phần bài tập hay là tổng kết toàn bài...) Khi tích hợp giáo viên cần sử dụng ngôn từ kết nối sao cho lô gic và hài hòa....từ  đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho HS.
Khi dạy học một tiết học vận kiến thức tích hợp với các môn học khác, GV cần có sự am hiểu rộng. Đặc biệt phải nghiên cứu kĩ nội dung cần tích hợp, tích hợp với môn nào để có định hướng chuẩn bị kiến thức phù hợp.Trong quá trình nghiên cứu vận dụng vào công tác giảng dạy tôi nhận thấy các môn như: Địa lí, GDCD, Lịch sử, Ngữ văn... có nhiều nội dung kiến thức gần gũi để tích hợp.Vì vậy sau khi xác định được mục tiêu tích hợp, nội dung và địa chỉ tích hợp, GV cần có phương pháp dạy học phù hợp, để có những giờ dạy theo quan điểm tích hợp đạt hiệu quả cao, theo tôi:
- Giáo viên phải thấm nhuần quan điểm tích hợp, có cái nhìn tổng thể về mục tiêu chương trình Sách giáo khoa, phương pháp dạy bộ môn.
- Sử dụng nội dung phù hợp và căn cứ vào kiến thức chuẩn môn sinh học 9.
- Khai thác nội dung chọn lọc phù hợp với từng phần trong bài học.
- Phát huy tính tích cực của học sinh.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
- Trong quá trình dạy học môn học của mình, GV vẫn thường xuyên dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về kiến thức liên môn hay nói cách khác GV đã dạy tích hợp liên môn từ lâu rồi nhưng chưa đi sâu, chưa có khái niệm cụ thể mà thôi.
Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của GV không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động của HS cả ở trong và ngoài lớp học; vì vậy, GV các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp hỗ trợ nhau trong dạy học.
Trong những năm qua GV cũng được trang bị thêm nhiều kiến thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: Phương pháp bàn tay nặn bột hoặc kĩ thuật khăn trải bàn,
 Môi trường “Trường học kết nối” rất thuận lợi để GV đổi mới trong dạy tích hợp.
Nhà trường đã đầu tư nhiều phương tiện dạy học có thể đáp ứng một phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Sự phát triển của công nghệ thông tin, sự hiểu biết của đội ngũ GV của nhà trường là cơ hội để chúng ta triển khai tốt dạy học tích hợp.
- Dạy học tích hợp giúp học sinh tiết kiệm được thời gian học tập mà vẫn mang lại hiệu quả nhận thức cao, đặc biệt tránh được những biểu hiện cô lập, tách rời từng kiến thức. Vì dạy học theo quan điểm tích hợp là một xu hướng tất yếu của dạy học hiện đại.
Học sinh được rèn luyện thói quen, tư duy nhận thức một vấn đề nào đó một cách có hệ thống và logic.
Gắn kết được các kiến thức, kĩ năng và thái độ của các môn khoa học khác với nhau làm cho HS yêu thích môn học hơn và phát triển năng lực toàn diện ở HS.
- Tuy vậy, trong thực tế giảng dạy, GV chỉ mới chú ý đến kiến thức cần được hình thành ở bài học đó chưa chú ý đến các kiến thức được lồng ghép giữa các bài học, môn học với nhau nếu có cũng chỉ là một cách sơ sài. Vấn đề tâm lí chủ yếu quen dạy kiến thức theo tiết học thuộc môn học mình phụ trách nên khi dạy học tích hợp GV sẽ vất vả hơn, phải xem xét, rà soát chương trình nội dung tiết học. Nội dung của phương pháp dạy học tích hợp củng yêu cầu GV cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học trong chương trình hiện hành theo định hướng phát triển năng lực HS nên không tránh khỏi làm cho GV có cảm giác ngại thay đổi.
- Dạy học tích hợp là cả một quá trình từ tiểu học đến THPT nên đối với HS trường THCS Thiệu Giang hiện tại đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới HS thấy lạ lẫm và khó bắt kịp.
 Hiện nay đa số HS trường THCS Thiệu Giang chưa có kĩ năng thu thập thông tin từ mọi phương tiện làm vốn kiến thức để vận dụng các kiến thức tích hợp vào trong bài học, HS chưa được học các tiết học có nội dung tích hợp cụ thể vì vậy các em còn gặp khó khăn khi tham gia học tập.
- Trước khi thực hiện đề tài này tôi đã làm một số cuộc khảo sát đối với học sinh khối 9 ở trường THCS Thiệu Giang liên quan đến kiến thức và những hiểu biết của mình về Môi trường và các nhân tố sinh thái, theo dõi điều tra bằng phiếu thăm dò HS và kết quả thi sau khi học song bài học năm học 2015 – 2016 của 75 HS (gồm 2 lớp 9A và 9B) tôi thu kết quả như sau:
Lớp
Tổng số HS
Kết quả đạt được
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
37
3
8,1
10
27
18
48,7
6
16,2
9B
38
2
5,3
6
15,8
23
60,5
7
18,4
Tổng
75
5
6,7
16
21,3
41
54,7
13
17,3
Theo kết quả khảo sát thì số học sinh có hiểu biết và ý thức bảo vệ môi trường và các nhân tố sinh thái thể hiện tốt trong bài viết không nhiều. Số còn lại không biết hoặc biết rất lơ mơ, trong số các em đã biết thì cũng chỉ dừng lại sự hiểu biết chung chung mà chưa hiểu rõ về giá trị của môi trường đối với đời sống con người. Từ những kết quả (thực trạng) trên, tôi rút ra những nguyên nhân cơ bản sau:
- GV dạy bộ môn chưa thực sự tâm huyết với bộ môn của mình dạy, còn truyền thụ kiến thức theo một chiều mà chưa đặt HS vào đối tượng trung tâm, nên chưa phát huy được tinh thần tự học của HS. Mặt khác việc kiểm tra đánh giá của GV chưa thực sự chặt chẽ, nhiều câu hỏi mới mang tính nhận biết, thông hiểu, vận dụng ở mức độ thấp mà chưa có câu hỏi liên hệ với các bộ môn khác để giải quyết các vấn đề đặt ra.
- HS khi học tập chưa xác định được tầm quan trọng của môn học. Khi kiểm tra đánh giá các em nghĩ chỉ cần đạt điểm trung bình là được.
- Phụ huynh HS chưa nhận thức đúng đắn vai trò ý nghĩa của môn sinh học, đồng thời phụ huynh còn định hướng cho con em mình chỉ học các môn Toán, Vật lí, Hóa học, Ngữ văn, Tiếng anh còn các môn còn lại trong đó có môn Sinh học là môn phụ chỉ cần học cho biết chứ không cần giỏi.
Từ những lí do trên ở năm học 2016 – 2017 này trong quá trình giảng dạy của mình tôi đã đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề như sau: Lấy lớp 9A làm lớp thực nghiệm dạy học theo hướng tích hợp còn lớp 9B làm lớp đối chứng dạy học theo phương pháp cũ.
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Phương thức tích hợp.
Trong chương trình Sinh học lớp 9 có một số bài liên quan đến môi trường và các nhân tố sinh thái, khi đã xác định được kiến thức trọng tâm bài học, tôi đã định hướng mở rộng liên hệ tích hợp về kiến thức liên quan đến môi trường và các nhân tố sinh thái để các em nhận thức được đây là vấn đề quan trọng các em cần phải biết để từ đó biết cách sử lí và có thái độ yêu thiên nhiên, yêu thích bộ môn. Để làm tốt điều này tôi đã:
- Thống kê các bài có thể tích hợp.
- Nghiên cứu địa chỉ tích hợp.
- Tìm nội dung và cách thức tích hợp phù hợp.
- Do bị hạn chế về thời gian nên trong tất cả các giờ học Sinh học có yêu cầu tích hợp tôi đều nêu câu hỏi về cuối mỗi phần ,cuối tiết học để học sinh có thể trả lời ngay trong bài hoặc có thể về nhà tìm hiểu thông qua sách, báo, truyền hình, Đồng thời ở các tiết học có tích hợp tôi đều sử dụng bài giảng điện tử.
- Ngoài ra tôi còn thường xuyên theo dõi cập nhật thông tin về thời tiết, sự thay đổi của môi trường để cung cấp thêm cho học sinh giúp các em thấm nhuần hơn nội dung này.
- Tôi cũng khuyến khích các em xem thời sự, đọc các tư liệu, chuyện kể về môi trường, sự biến đổi môi trường, 
Nội dung bài học môi trường và các nhân tố sinh thái có thể vận dụng nội dung tích hợp rất phong phú, có thể tích hợp trong từng thời điểm. Có thể tích hợp những kiến thức liên quan đến nội dung môi trường thông qua tranh ảnh Điều quan trong GV phải thực sự linh hoạt. Đối với các đơn vị kiến thức các em đã biết, GV dùng để tích hợp nhằm khắc sâu lại kiến thức cho các em, đồng thời rèn cho các em ý thức và kĩ năng vận dụng. Đối với các đơn vị kiến thức sẽ hình thành GV đưa ra cách gợi mở, qua đó khơi gợi tinh thần ham hiểu biết, muốn khám phá ở học sinh.
2.3.2. Các bước xây dựng bài soạn tích hợp.
Để việc tích hợp kiến thức các môn học vào trong bài học có hiệu quả thì GV cần phải nắm vững các bước xây dựng bài soạn tích hợp như sau:
- Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng và yêu cầu về thái độ trong chương trình, vào đối tượng học sinh từng lớp.
- Nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu liên quan để: Hiểu chính xác, đầy đủ nội dung bài học. Xác định những kiến thức, kĩ năng thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở học sinh. Xác định trình tự logic của bài học.
- Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức

Tài liệu đính kèm:

  • docvan_dung_noi_dung_day_hoc_tich_hop_vao_day_hoc_tiet_41_bai_4.doc