Sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy môn Sinh học ở cấp THCS
Yêu cầu của giáo dục hiện nay là phải đổi mới phương pháp dạy học, tức là hoạt động dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giúp học sinh hoạt động tích cực. Tự học sinh phát hiện, chiếm lĩnh thông tin kiến thức từ thực tế, hoặc thông qua làm thí nghiệm, hoặc qua quan sát tranh, ảnh, mô hình, vật mẫu. chống thói quen học tập thụ động. Phương pháp “ bàn tay nặn bột” khắc phục được nhược điểm của dạy học truyền thống, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ phức hợp giữa lí thuyết và thực tiễn.
Tuy nhiên, không phải nội dung kiến thức sinh học nào cũng có thể áp dụng thành công phương pháp “ Bàn tay nặn bột”. Mà phương pháp này chỉ thành công trong các mạch kiến thức về giải phẩu hình thái, phân loại sinh vật.
Thông qua quan sát các em hình thành kỉ năng chủ động chiếm lĩnh, tìm ra kiến thức. từ đó các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, làm việc tập thể, và có kĩ năng trình bày ý kiến của mình trước một sự vật, một sự việc trong thực tế.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn nội dung chuyên đề “ Sử dụng phương pháp bàn tay năn bột trong giảng dạy môn Sinh Học ở trường THCS”.
Với chuyên đề này, tôi đã vận dụng:
+ Cơ sở lí luận của phương pháp “ Bàn tay nặn bột:
+ Các nguyên tắc khi dạy học bằng phương pháp bàn tay nặn bột.
+ Các bước của giờ dạy phương pháp bàn tay nặn bột.
+ Quy trình dạy từng loại bài học vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột.
+ Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột dạy bài 17- tiết 16 sinh học 7.
1. Cơ sở xây dựng chuyên đề Yêu cầu của giáo dục hiện nay là phải đổi mới phương pháp dạy học, tức là hoạt động dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giúp học sinh hoạt động tích cực. Tự học sinh phát hiện, chiếm lĩnh thông tin kiến thức từ thực tế, hoặc thông qua làm thí nghiệm, hoặc qua quan sát tranh, ảnh, mô hình, vật mẫu. chống thói quen học tập thụ động. Phương pháp “ bàn tay nặn bột” khắc phục được nhược điểm của dạy học truyền thống, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ phức hợp giữa lí thuyết và thực tiễn. Tuy nhiên, không phải nội dung kiến thức sinh học nào cũng có thể áp dụng thành công phương pháp “ Bàn tay nặn bột”. Mà phương pháp này chỉ thành công trong các mạch kiến thức về giải phẩu hình thái, phân loại sinh vật. Thông qua quan sát các em hình thành kỉ năng chủ động chiếm lĩnh, tìm ra kiến thức. từ đó các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, làm việc tập thể, và có kĩ năng trình bày ý kiến của mình trước một sự vật, một sự việc trong thực tế. Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn nội dung chuyên đề “ Sử dụng phương pháp bàn tay năn bột trong giảng dạy môn Sinh Học ở trường THCS”. Với chuyên đề này, tôi đã vận dụng: + Cơ sở lí luận của phương pháp “ Bàn tay nặn bột: + Các nguyên tắc khi dạy học bằng phương pháp bàn tay nặn bột. + Các bước của giờ dạy phương pháp bàn tay nặn bột. + Quy trình dạy từng loại bài học vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột. + Vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột dạy bài 17- tiết 16 sinh học 7. 1.1. Cơ sở lí luận của phương pháp “BÀN TAY NẶN BỘT” 1.1.1Phương pháp bàn tay nặn bột ( BTNB) Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột" (BTNB), tiếng Pháp là La main à la pâte - viết tắt là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp dạy học khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự nhiên. Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải Nobel Vật lí năm 1992). Theo phương pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của GV, chính HS tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình. Đứng trước một sự vật hiện tượng, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành thực nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. 1.1.2.Mục tiêu của phương pháp BTNB Là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS. 1.1.3. Đặc điểm của phương pháp BTNB Phương pháp "Bàn tay nặn bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức và năng lực nghiên cứu khoa học cho HS bằng việc tổ chức cho HS tiến hành tìm tòi, nghiên cứu dưới nhiều hình thức khác nhau: thực nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong thế giới vật chất xung quanh mình. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” đảm bảo sự thống nhất giữa phương pháp khoa học và phương pháp dạy học bộ môn, HS được tổ chức để tự phát hiện và giải quyết nhiệm vụ học tập, hoạt động của HS gần giống với hoạt động của nhà nghiên cứu. Đối với mỗi sự vật, hiện tượng trên cơ sở quan sát, dự đoán, thực nghiệm từ những lập luận, suy đoán lôgic mà HS tiếp cận dần với vấn đề cần giải quyết bằng cách đặt ra những câu hỏi, những tình huống liên quan, từ đó đề xuất những giả thuyết hay phương án nghiên cứu để giải quyết, khám phá vấn đề đã đặt ra, dưới hình thức tiến hành các hoạt động tìm tòi, tranh luận, đối chiếu, kiểm chứng để hình thành và xây dựng kiến thức khoa học, những kĩ năng thực hành, từ đó tự bản thân HS thích ứng và điều chỉnh quan niệm ban đầu về thế giới vật chất xung quanh. 1.1.4. Các phương pháp trong dạy BTNB a. Phương pháp quan sát * Quan sát được sử dụng để: - Giải quyết một vấn đề - Miêu tả một sự vật, hiện tượng - Xác định đối tượng * Quan sát sẽ: - Tìm câu trả lời cho câu hỏi đặt ra. - Nhận thức bằng tất cả các giác quan - Tổ chức sự nghiên cứu một cách chặt chẽ và có phương pháp - Xác lập các mối quan hệ bằng cách so sánh với các mô hình, những hiểu biết và các đối tượng khác. * Quan sát giúp HS phát triển các khả năng: - Chặt chẽ trong nhìn nhận - Tò mò trước một sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh - Khách quan - Tinh thần phê bình - Nhận biết - So sánh - Chọn lọc những điểm chủ yếu, quan trọng và đặc trưng của sự vật hiện tượng. * Lưu ý: - Có thể sử dụng các phương tiện để quan sát (kính lúp, kính hiển vi, ống nhòm); - Có thái độ khoa học: tò mò, chặt chẽ, khách quan; - Quan sát quan trọng hơn nhìn (có những cảm giác thị giác); - Quan sát quan trọng hơn chú ý (xác định các cảm giác thị giác); - Quan sát không phải là mục đích, đó chỉ là một phương tiện của nghiên cứu; - Quan sát là sự tiếp cận sự vật, hiện tượng một cách cụ thể, dễ hiểu, đặc biệt đối với HS nhỏ tuổi (HS mẫu giáo, tiểu học); - HS có thể quan sát các sự vật, hiện tượng từ những vật thật, từ hình ảnh, mô hình hay từ các loại băng hình (phim) b. PP nghiên cứu tài liệu Khi cho HS tiến hành phương pháp nghiên cứu tài liệu, GV giúp HS xác định được: - Động cơ đọc tài liệu: tìm hiểu tổng quát, tìm hiểu chuyên sâu, tìm một định nghĩa, làm sáng tỏ một vấn đề...; - Vấn đề nào cần quan tâm: đó là những khía cạnh của vấn đề đã được xác định trong các câu hỏi đặt ra trước khi nghiên cứu, tìm hiểu; là chủ đề kiến thức của bài học; - Những thắc mắc đang cần tìm câu trả lời: tìm câu trả lời cho các câu hỏi đặt ra; - Kiểu thông tin nào đang cần có: số liệu, hình ảnh minh họa, định nghĩa, giải thích hiện tượng, mô tả sự vật hiện tượng, chú thích cho hình vẽ; - Vị trí cần đọc, nghiên cứu trong tài liệu: mục liên quan đến vấn đề đang muốn tìm hiểu. 2. Nội dung chuyên đề 2.1.Mười nguyên tắc của phương pháp “BÀN TAY NẶN BỘT” 1. Học sinh quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với chúng và dễ cảm nhận và chúng thực hành trên những cái đó. 2. Trong quá trình tìm hiểu, hoc sinh lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận của mình, từ đó có những hiểu biết mà chỉ hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên. 3. Những hoạt động của giáo viên đề xuất cho học sinh nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên và giành cho học sinh việc tự chủ khá lớn. 4. Cần một thời lượng tối thiểu là 2 giờ / tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập. 5. Học sinh có mỗi em một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ chính các em. 6. Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành , kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ nói và viết. 7. Các gia đình, khu phố nơi các em sinh sống khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học. 8. Ở địa phương các đối tác khoa học ( Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu) giúp hoạt động của lớp theo khả năng của mình. 9. Ở địa phương, các Viện đào tạo giáo viên giúp các giáo viên kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy. 10. Giáo viên có thể tìm thấy trên Internet những mô đun (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải đáp thắc mắc. Họ cũng có thể tham gia những hoạt động tập thể bằng trao đổi với các đồng nghiệp, các nhà sư phạm và các nhà khoa học. GV là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách. 2.2. Các bước của giờ học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” Bước 1: Nêu ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề - Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách hấp dẫn nhập vào bài học. - Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với HS; nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. - Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học; cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của HS nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. - GV dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh: - Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi hay giả thuyết của HS là bước quan trọng đặc trưng của PPBTNB. Trong bước này, GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi học được kiến thức đó. Khi yêu cầu HS trình bày quan niệm ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của HS như có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực hiện: * Đề xuất câu hỏi: Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của HS, GV giúp HS đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì GV cần phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong hàng chục biểu tượng của HS một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của HS nhằm giúp HS đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Sau khi chọn lọc các biểu tượng ban đầu của HS để ghi chép (đối với mô tả bằng lời) hoặc gắn hình vẽ lên bảng hoặc vẽ nhanh lên bảng (đối với hình vẽ), GV cần khéo léo gợi ý cho HS so sánh các điểm giống (đồng thuận giữa các ý kiến) hoặc khác nhau (không nhất trí giữa các ý kiến) các biểu tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau cơ bản đó GV giúp HS đề xuất các câu hỏi. Sau khi giúp HS so sánh và gợi ý để HS phân nhóm các ý kiến ban đầu, GV hướng dẫn HS đặt các câu hỏi nghi vấn. *Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu: Từ các câu hỏi được đề xuất, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Các câu hỏi có thể là: “Theo các em làm thế nào để chúng ta tìm câu trả lời cho các câu hỏi nói trên?”; “Bây giờ các em hãy suy nghĩ để tìm phương án giải quyết các câu hỏi mà lớp mình đặt ra?” Sau khi HS đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi-nghiên cứu, GV nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành PP thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. Lưu ý rằng phương án thực nghiệm tìm tòi-nghiên cứu ở đây được hiểu là các phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều PP như quan sát, TH thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu, Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi- nghiên cứu: - Từ các phương án thực nghiệm tìm tòi-nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu. - Khi tiến hành thí nghiệm, GV nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu HS cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó GV phát cho HS các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với các hoạt động. - Mỗi thí nghiệm được thực hiện xong, GV nên dừng lại để HS rút ra kết luận. GV lưu ý HS ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thực hành. Bước 5: Kết hợp và hợp thức hóa kiến thức. - Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm. Quy trình thiết kế và thực hiện khảo sát thực nghiệm khoa học Các bước Nội dung Bước 1: Giải pháp để tiến hành khám phá khoa học Cái có thể thay đổi là gì? Cái có thể đo là gì? Bước 2: Chọn các biến (Biến độc lập – Biến phụ thuộc) Ta sẽ thay đổi cái gì? Ta sẽ đo cái gì? Cái sẽ giữ không đổi là gì? Bước 3: Đặt câu hỏi Khi thay đổi "Cái ta muốn thay đổi" thì cái gì sẽ xảy ra? Bước 4: Dự đoán điều có thể xảy ra Khi ta (làm tăng, làm giảm, làm ngắn...) "Cái ta muốn thay đổi", ta nghĩ "Cái ta đo" sẽ (tăng, giảm, dài ra, ngắn lại, biến đổi...), bởi vì "Lời giải thích cho dự đoán" Bước 5: Kế hoạch và phương pháp Liệt kê các thiết bị cần thiết để khảo sát Viết ra các bước cần tiến hành để khảo sát Bước 6: Lập bảng kết quả Lập các bảng số liệu thí nghiệm Tiến hành thí nghiệm và ghi lại kết quả đo. Bước 7: Vẽ đồ thị Vẽ đồ thị từ các bảng kết quả. Bước 8: Kết luận Rút ra kết luận từ bảng sổ liệu và đồ thị. 2.3. Vai trò của người giáo viên GV là người hướng dẫn: - Đề ra những tình huống, những thử thách. - Định hướng các hoạt động. - Thu hẹp những cái có thể. - Chỉ ra, thông tin. GV là người trung gian: - Là nhà trung gian giữa “thế giới” khoa học và học sinh. - Là người đàm phán với học sinh những thay đổi nhận thức liên quan với những câu hỏi được xử lí, với các thiết bị thực nghiệm thích đáng, với mô hình giải thích hợp lí. - Đảm bảo sự đoán trước và giải quyết các xung đột nhận thức. - Hành động bên cạnh với mỗi học sinh cũng như với mỗi nhóm học sinh và cả lớp. 2.4. Vai trò của học sinh trong giờ học với PPBTNB - HS quan sát một hiện tượng của thế giới thực tại và gần gũi với chúng về đề tài mà từ đó chúng sẽ hình thành các nghi vấn. - HS tìm tòi, suy nghĩ và đề ra những bước đi cụ thể của thực nghiệm, hoặc chỉnh lí lại những ca thất bại nhờ tra cứu tư liệu. - HS trao đổi và lập luận trong qu trình hoạt động, chúng chia sẻ với nhau những ý tưởng của mình, cọ sát những quan điểm của nhau và hình thành những kết luận tạm thời hoặc cuối cùng bằng ghi chép, biết phát biểu. 2.5. Vai trò của vở thực nghiệm - Vở thực nghiệm không áp đặt cách ghi nhưng có mẫu sẽ thuận tiện cho các em trong việc ghi chép và đỡ mất thời gian của tiết học. - Có nhiều cách để ghi: có thể các em sẽ ghi bằng văn bản, bằng hình vẽ hoặc bằng sơ đồ. Câu hỏi Dự đoán Thực hiện Điều chỉnh Kết quả Gợi ý cách ghi vở thực hành cho học sinh Vấn đề đặt ra 1 Vấn đề tôi cần nghiên cứu: Vấn đề chúng ta cần nghiên cứu: Giả thiết 2 Tôi nghĩ: Tôi nghĩ phải làm: Tôi đề xuất: Tôi muốn kiểm chứng: Chúng ta nghĩ: Chúng ta nghĩ phải làm: Chúng ta đề xuất: Chúng ta muốn kiểm chứng: Thí nghiệm 3 Tôi làm: Chúng ta làm: Kết quả thí nghiệm 4 Tôi quan sát: Tôi đo: Chúng ta quan sát: Chúng ta đo: Kết luận 5 Tôi có thể nói rằng: Tôi rút ra: Chúng ta kết luận rằng: Chúng ta rút ra: 2.5.Những điều lưu ý - Phương pháp BTNB là một phương pháp có tiến trình dạy học rõ ràng,có thể vận dụng để dạy chương trình sinh học lớp 7 ví dụ các bài sau: bài 17, 27, 32, 34, 37, 40, 41, 44, Tôi mạnh dạn vận dụng soạn và dạy trong tiết 16- bài 17. - Thực hiện phương pháp này không thể nóng vội, cần thực hiện từng bước để tạo thói quen cho học sinh lúc đó việc dạy học với PP BTNB sẽ dễ dàng và đem lại hiệu quả cao. - Tất cả các câu hỏi của học sinh đưa ra ta không bỏ qua mà sẽ trả lời qua bài học ( câu hỏi nào chưa có trong nội dung bài ta cần khéo léo dẫn dắt để có kiến thức ở các bài ta sẽ trả lời cho các em). - Trước giờ ta vẫn làm củng cố bài là phải nhắc lại nội dung kiến thức để các em nhớ được thì nay với PPBTNB sẽ là những thử thách mới để các em tìm tòi khám phá ở nhà cũng là bước chuẩn bị cho bài sau. - Hạn chế ghi đề bài trước khi học sinh tìm tòi - nghiên cứu rút ra kết luận. 3. Áp dụng chuyên đề 3.1 Thiết kế bài học TIẾT 16- BÀI 17: MỘT SỐ GIUN ĐỐT KHÁC. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NGÀNH GIUN ĐỐT. I. MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Kiến thức( Giảm tải mục đặc điểm chung-không dạy ) - Chứng minh được sự đa dạng của ngành Giun đốt - Trình bày được vai trò của ngành Giun đốt - Nêu được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học. 2. Kỹ năng - Hình thành kỹ năng nhận biết vấn đề môi trường. - Rèn kĩ năng quan sát, phân tích. - Rèn kĩ năng hoạt động nhóm. - Biết cách phân loại rác. - Biết cách tạo một hộp ủ phân hữu cơ. 3. Thái độ - Có ý thức bảo vệ môi trường và bảo tồn sự đa dạng của giun đốt. - Tham gia tuyên truyền bảo vệ môi trường. - Có ý thức phân loại rác và sử dụng giun để phân hủy rác hữu cơ. - Khơi gợi niêm say mê, yêu thích môn học. 4. Năng lực cần đạt được: a. Nhóm năng lực chung: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực tự quản lí. năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tính toán. b. Nhóm năng lực, kĩ năng chuyên biệt trong môn Sinh học - Các năng lực chuyên biệt trong môn Sinh học năng lực kiến thức về ruột khoang, năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực thực hiện trong phòng thực hành - Các kĩ năng chuyên biệt trong môn Sinh học, quan sát tranh bằng mắt thường trên tranh ảnh, mẫu vật II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH 1. GV: - Tranh ảnh, phim tư liệu về ngành Giun đốt - Bảng phụ - Máy chiếu Projecter - Máy chiếu vật thể 2. HS:- Sưu tầm tài liệu, tranh ảnh về vai trò của ngành Giun đốt theo nhóm. III. PHƯƠNG PHÁP Phương pháp bàn tay nặn bột IV. TIẾN TRÌNH DẠY - HỌC A- HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG Mục tiêu: tạo hứng thú để học bài mới - GV yêu cầu HS đưa ra các mẫu vật và tranh ảnh đã chuẩn bị về ngành Giun đốt. HS: đưa mẫu vật, tranh, ảnh về giun đốt đã chuẩn bị trước. Nên có các đại diện nêu trong sách giáo khoa và bổ sung thêm đại diện khác. GV: Từng cá nhân hãy viết ra các câu hỏi để tìm hiểu về ngành Giun đốt. B – HÌNH THÀNH KIẾN THỨC Mục tiêu: Thông quan các đại diện , HS thấy được sự đa dạng của giun đốt. * Hình thành biểu tượng ban đầu của HS - GV yêu cầu HS trình bày ý kiến, HS có thể nêu ý kiến khác nhau. - GV định hướng: + Ngành Giun đốt đa dạng như thế nào? + Ngành Giun đốt có vai trò gì đối với tự nhiên và đời sống con người? * Đề xuất giả thuyết và phương án kiểm chứng giả thuyết HS (hoạt động nhóm) đưa ra giả thuyết: + Ngành Giun đốt rất đa dạng? + Ngành Giun đốt có lợi, có hại cho con người? HS (hoạt động nhóm) đề ra phương án kiểm chứng: + Tìm số liệu về số loài giun đốt thông qua nghiên cứu SGK. + Xác định thông tin về: môi trường sống, lối sống, màu sắc, kích thước, vòng đời, di chuyển, cấu tạo... của những giun đốt thường gặp thông qua các mẫu vật sống, qua theo dõi băng hình về một số đại diện thường gặp (giun đất, giun đỏ, đỉa, vắt, rươi, sá sùng). + Xác định vai trò của những giun đốt mà mình biết bằng kiến thức thực tế. GV yêu cầu HS viết, vẽ những dự đoán về kết quả của nhóm vào vở thí nghiệm. *Tìm tòi - nghiên cứu - HS tiến hành kiểm chứng giả thuyết ghi lại kết quả vào vở thí nghiệm (dưới hình thức sơ đồ tư duy): - Cá nhân HS tự quan sát tranh hình, đọc thông tin SGK, ghi nhớ kiến thức, trao đổi nhóm, thống nhất ý kiến và hoàn thành nội dung giả thiết: - Yêu cầu: + Chỉ ra được lối sống của các đại diện giun đốt. + 1 số cấu tạo phù hợp với lối sống. + Ngành Giun đốt đa dạng về Loài: trên 9000 loài Môi trường sống: trong đất, dưới nước, Lối sống: tự do, ký sinh, Kích thước: to, nhỏ, dài ngắn, + Vai trò của ngành Giun đốt: - Có lợi: Làm thức ăn cho người và động vật: rươi, sá sùng Làm thuốc: chống đông máu, hút máu độc, cao huyết áp,... Cải tạo đất: làm đất tơi xốp, màu mỡ Góp phần đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái. - Gây hại: Hút máu người: đỉa, vắt Hút máu động vật: Đỉa, vắt - GV: Để xem ngành Giun đốt còn vai trò gì nữa, các con hãy theo dõi thí nghiệm sau (thí nghiệm này cô đã chuẩn bị trước 4 tuần): + Hộp 1: Đất + rác hữu cơ + giun + Hộp 2: Đất + rác hữu cơ. GV đổ đất của 2 hộp ra 2 khay có đánh số. (?)Hãy quan sát và cho nhận xét: hộp nào đất tơi xốp hơn, r
Tài liệu đính kèm:
- su_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_trong_day_mon_sinh_hoc_o.docx