SKKN Xây dựng tình huống có vấn đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một số bài trong chương trình vật lí THPT

SKKN Xây dựng tình huống có vấn đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một số bài trong chương trình vật lí THPT

Đối với chương trình vật lí học ở phổ thông, là một môn khoa học thực nghiệm, mọi kết luận và thành quả của nó đều được rút ra từ việc kiểm chứng bằng quan sát, thí nghiệm đo lường. Vì vậy, thí nghiệm có vị trí và vai trò quan trọng trong giảng dạy vật lí. Đó là phương pháp giúp học sinh xây dựng niềm tin vào lí thuyết, nắm được bản chất và khắc sâu được kiến thức, từ đó giúp các em có thêm hứng thú, đam mê đối với môn học, khi mà có thể vận dụng lí thuyết giải thích các hiện tượng, vận dụng sáng tạo linh hoạt trong khoa học thực nghiệm.

Bởi vậy dạy học nói chung và dạy học vật lí nói riêng cần phải tăng cường tính trực quan trong quá trình lên lớp thông qua việc sử dụng thí nghiệm và phương tiện trực quan. Tích cực hóa là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển vị trí người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. Việc học chỉ có hiệu quả khi học sinh thật sự là chủ thể của quá trình nhận thức. Vì vậy, để khắc phục lối truyền thụ một chiều cần phải khơi dậy tính tích cực của người học. Trong dạy học vật lí việc khai thác và sử dụng thí nghiệm và các phương tiện trực quan cũng là một biện pháp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức và gây hứng thú cho học sinh.

Trong Nghị Quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông cũng có nêu rõ: “Chương trình môn Vật lí mới ở phổ thông sẽ coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm và các kỹ năng thực hành”[6].

 

docx 20 trang thuychi01 13843
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Xây dựng tình huống có vấn đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một số bài trong chương trình vật lí THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU ...................Trang 2
1.1. Lí do chọn đề tài 	2
1.2. Mục đích nghiên cứu.	3
1.3. Đối tượng nghiên cứu	3
1.4. Phương pháp nghiên cứu 	3
2. NỘI DUNG 	4
2.1. Cơ sở lí luận	4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm	6
2.3.Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề	7
2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm	13
3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ	15
3.1. Kết luận 	15
3.2. Kiến nghị	16
PHỤ LỤC	17
TÀI LIỆU THAM KHẢO	19
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đối với chương trình vật lí học ở phổ thông, là một môn khoa học thực nghiệm, mọi kết luận và thành quả của nó đều được rút ra từ việc kiểm chứng bằng quan sát, thí nghiệm đo lường. Vì vậy, thí nghiệm có vị trí và vai trò quan trọng trong giảng dạy vật lí. Đó là phương pháp giúp học sinh xây dựng niềm tin vào lí thuyết, nắm được bản chất và khắc sâu được kiến thức, từ đó giúp các em có thêm hứng thú, đam mê đối với môn học, khi mà có thể vận dụng lí thuyết giải thích các hiện tượng, vận dụng sáng tạo linh hoạt trong khoa học thực nghiệm. 
Bởi vậy dạy học nói chung và dạy học vật lí nói riêng cần phải tăng cường tính trực quan trong quá trình lên lớp thông qua việc sử dụng thí nghiệm và phương tiện trực quan. Tích cực hóa là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển vị trí người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. Việc học chỉ có hiệu quả khi học sinh thật sự là chủ thể của quá trình nhận thức. Vì vậy, để khắc phục lối truyền thụ một chiều cần phải khơi dậy tính tích cực của người học. Trong dạy học vật lí việc khai thác và sử dụng thí nghiệm và các phương tiện trực quan cũng là một biện pháp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức và gây hứng thú cho học sinh.
Trong Nghị Quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông cũng có nêu rõ: “Chương trình môn Vật lí mới ở phổ thông sẽ coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm và các kỹ năng thực hành”[6].
Tuy nhiên, việc đưa thí nghiệm vào giảng dạy vật lí ở trường phổ thông còn gặp nhiều khó khăn. Một phần do thiếu thiết bị, các thiết bị không đồng bộ hay không chính xácMột phần do số giáo viên còn ngại khi sử dụng các thí nghiệm vào giờ dạy do chưa được trang bị kỹ về kiến thức thực hành thí nghiệm. Qua tìm hiểu tôi biết rằng cũng đã có nhiều quý thầy cô giáo bằng kinh nghiệm đã thiết kế nên các thí nghiệm đơn giản, dễ làm, dễ hiểu, gần gũi với học sinh và ít tốn kém, phục vụ cho giảng dạy ở trường phổ thông và đã mang lại hiệu quả cao cho giờ học. Và tôi cũng nhận thấy thí nghiệm được sử dụng chủ yếu chỉ dừng lại ở các thí nghiệm trong sách giáo khoa để kiểm chứng hoặc đo lường để rút kết luận bài học, còn thí nghiệm để đưa học sinh vào tình huống có vấn đề của bài học thì chủ yếu do kinh nghiệm của từng giáo viên suy nghĩ xây dựng đưa vào bài dạy của mình và chưa thực sự được quan tâm tìm hiểu đúng mức đưa vào khởi động khơi gợi tính tò mò từ đó kích thích học sinh chủ động tìm hiểu chiếm lĩnh kiến thức.
Trong quá trình giảng dạy của mình, tôi đã nghiên cứu tìm hiểu tài liệu và tiến hành xây dựng được nhiều thí nghiệm đơn giản, dễ quan sát, dễ làm đưa vào giảng dạy đặc biệt có hiệu quả ở bước đặt vấn đề khởi động gây hứng thú cho học sinh từ đó các em có nhu cầu tìm hiểu kiến thức để giải quyết hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm, qua đó chiếm lĩnh được kiến thức sâu sắc, lâu dài. Ở khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy và học vật lí trong nhà trường phổ thông và hi vọng cũng là một gợi ý cho quý đồng nghiệp tham khảo trong quá trình giảng dạy bộ môn Vật lí của mình, tôi xin mạn phép trình bày sáng kiến kinh nghiệm “Xây dựng tình huống có vấn đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một số bài trong chương trình vật lí THPT” làm đề tài cho nghiên cứu của mình. 
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích chủ yếu của đề tài “Xây dựng tình huống có vấn đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một số bài trong chương trình vật lí THPT” là nhằm giúp học sinh hứng thú với vấn đề của bài học từ đó mong muốn tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức thông qua các thí nghiệm đặt vấn đề của bài học. Các thí nghiệm khởi động phù hợp sẽ lôi cuốn học sinh vào vấn đề của bài học, qua đó phát huy tính tích cực học tập của học sinh, rèn luyện những kĩ năng cần thiết đặc biệt là kỹ năng thực hành, phát triển năng lực tư duy của học sinh, nâng cao chất lượng học tập bộ môn vật lí theo chuẩn kiến thức, kỹ năng. Nhờ vậy, học sinh có thể hiểu bài sâu hơn, rộng hơn, có hứng thú và năng lực cho việc chiếm lĩnh tri thức suốt đời.
Bên cạnh đó, đề tài này nếu được vận dụng thường xuyên và mở rộng cho nhiều bài thì còn rèn luyện kỹ năng ứng dụng thực hành, tư duy công nghệ vào thực tiễn cho học sinh, hình thành cho học sinh thói quen muốn giải thích hiện tượng, cao hơn là tự đề xuất được các thí nghiệm kiểm chứng, giúp các em có niềm say mê và yêu thích môn học.
Đề tài nghiên cứu không chỉ dừng ở những thí nghiệm, hiện tượng khởi động cho bài học mà đó còn là gợi ý cho các phần các khâu khác trong quá trình lên lớp như khâu giao nhiệm vụ về nhà tìm hiểu, xây dựng phương án, thực hành thí nghiệm mở rộng bài học hoặc để tìm hiểu vấn đề của bài học mới tiếp theo.
Ngoài ra, cá nhân tôi khi nghiên cứu đề tài này ngoài những mục tiêu trên còn hướng tới đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng chương trình sách giáo khoa mới dạy học theo chuyên đề của Bộ GD&ĐT đó là chú trọng kỹ năng thực hành, sáng tạo và chủ động chiếm lĩnh tri thức của người học.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Các thí nghiệm mở đầu tạo tình huống có vấn đề ở khâu đặt vấn đề hay khởi động của giờ dạy trong một số bài học của chương trình vật lí phổ thông. 
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tài liệu, dựa trên kinh nghiệm bản thân xây dựng hệ thống các thí nghiệm, hiện tượng dễ hiểu, dễ làm, dễ quan sát gắn liền với thực tiễn và nội dung của các bài học.
- Tìm hiểu, thử nghiệm thực tế: Thực hiện một số tiết dạy, dự giờ đồng nghiệp để rút kinh nghiệm.
- Thống kê, xử lí số liệu: so sánh đối chiếu kết quả thực nghiệm sư phạm từ đó đưa ra kết luận.
2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
 Tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW với nội dung “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong đó, nêu rõ “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”[2].
Nghị quyết cũng chỉ rõ nhiệm vu và giải pháp thực hiện trong đó “Phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ, dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề, tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”[2].
Trong Nghị Quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông cũng có nêu rõ “Chương trình môn Vật lí mới ở phổ thông sẽ coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm và các kỹ năng thực hành. Trong đó, thiết kế chương trình chú trọng vào bản chất, ý nghĩa vật lí của các đối tượng, đề cao tính thực tiễn; tránh khuynh hướng thiên về toán học, tạo điều kiện để giáo viên giúp học sinh phát triển tư duy khoa học dưới góc độ vật lí, khơi gợi sự ham thích ở học sinh, tăng cường khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn. Các chủ đề được thiết kế, sắp xếp từ trực quan đến trừu tượng, từ đơn giản đến phức tạp, từ hệ được xem như một hạt đến nhiều hạt, bước đầu tiếp cận với một số nội dung hiện đại mang tính thiết thực, cốt lõi. Chú ý thích đáng đến việc phát triển năng lực thông qua thực hành”[6]. Bên cạnh việc sử dụng các mô hình vật lí và toán học, chương trình chú trọng thích đáng đến việc hình thành năng lực tìm tòi khám phá các thuộc tính của đối tượng vật lí thông qua các nội dung thí nghiệm, thực hành dưới các góc độ khác nhau. Chương trình coi trọng việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lí vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống, vừa bảo đảm phát triển năng lực trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể. 
Để phù hợp với sự đổi mới nội dung chương trình đòi hỏi phải đổi mới về phương pháp dạy học. Đặc biệt với bộ môn vật lí, việc đổi mới nó liên quan rất nhiều đến phương pháp đặc trưng của bộ môn là phương pháp thực nghiệm, phương pháp này có liên quan đến trang thiết bị dạy học, dụng cụ thí nghiệm. Các thiết bị dạy học vật lí là điều kiện, phương tiện và nguồn tri thức không thể thiếu trong quá trình học tập của học sinh. Thông qua hoạt động với các thiết bị thí nghiệm vật lí, học sinh tiếp cận được với hình ảnh mô phỏng thực tế, rèn luyện các kỹ năng quan sát, thu thập và xử lí thông tin, hướng tới việc hình thành những năng lực cần thiết của người lao động mới. Theo quan điểm của lí luận dạy học thì thí nghiệm vật lí đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong tiến trình đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Vì vậy việc tìm ra một phương pháp dạy học phù hợp để nâng cao chất lượng dạy học trong trường THPT là một nhiệm vụ hàng đầu của mỗi giáo viên. 
Như chúng ta đã thấy, mỗi môn học có một đặc trưng riêng, vì vậy khi giảng dạy các môn học khác nhau thì cũng có phương pháp giảng dạy khác nhau. Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm nên việc đổi mới phương pháp cũng xuất phát từ đặc trưng này của bộ môn. Các kiến thức vật lí là sự khái quát hóa các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng diễn ra trong đời sống. Không có thí nghiệm, học sinh không có cơ sở để thực hiện các thao tác tư duy để tiếp cận tri thức mới. Do đó mọi kiến thức mà giáo viên truyền đạt đến học sinh còn mang tính áp đặt. Sự hiểu biết thế giới vật lí không chỉ đơn thuần bằng suy diễn lôgic. Chỉ có những quan sát thực nghiệm mới cho phép ta kiểm tra được sự đúng đắn của một sự vật hiện tượng. Tiết học có thí nghiệm học sinh có hứng thú hơn, tiết học sinh động hơn, đạt được hiệu quả cao hơn, đặc biệt là khi các em được thực hiện các thí nghiệm. 
 Trong những năm gần đây Bộ GD&ĐT đã triển khai đại trà chương trình sách giáo khoa mới. Với dung lượng kiến thức và yêu cầu của kiến thức mới bắt buộc giáo viên phải có một phương pháp dạy học phù hợp thì lượng kiến thức truyền đạt đến học sinh mới có chất lượng cao. Hướng đổi mới hiện nay là giảm lí thuyết hàn lâm tăng thời lượng thực hành. Vì vậy phương pháp dạy học bằng thực nghiệm là hết sức hợp lí.
Tôi nhận thấy dù theo phương pháp dạy học cũ hay mới thì khâu đặt vấn đề hay khởi động của bài học là hết sức quan trọng. Đó là bước quyết định không nhỏ cho chất lượng của tiết học, vì vậy người giáo viên khi xây dựng giáo án cần phải đầu tư tìm tòi để có cách khởi động hay nhất. Và đối với bản thân tôi sau thời gian áp dụng phương pháp thực nghiệm vào khâu khởi động của bài học các tiết học sôi nổi, học sinh hứng thú, chất lượng chuyên môn của giờ dạy được nâng cao, học sinh chủ động và tích cực hơn rất nhiều trong các giờ học Vật lí. 
Theo tôi trong đổi mới phương pháp dạy học vật lí THPT phải hướng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua phương pháp dạy học bộ môn, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm. Vì vậy, trong đề tài này tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm cụ thể về việc “Xây dựng tình huống có vấn đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một số bài trong chương trình vật lí THPT” để làm đề tài cho nghiên cứu của mình, sau đó phát triển thêm. Với ý tưởng này tôi hi vọng sẽ từng bước góp phần đổi mới được phương pháp giảng dạy một cách có hiệu quả làm cho chất lượng giáo dục ngày càng cao hơn.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trường THPT Đặng Thai Mai được thành thành lập ngày 20/08/2001, theo quyết định số 2109/QĐ-UB của Chủ tịch UBND Tỉnh Thanh Hoá. Trường đóng trên địa bàn thuộc xã Quảng Bình - Huyện Quảng Xương - Tỉnh Thanh Hoá. Là địa bàn có dân cư phân bố thưa thớt, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn nên sự chăm lo đến việc học tập của con em chưa được chú ý nhiều, phong trào học tập của học sinh đang còn thấp. Năm học 2017-2018, nhà trường có tổng số CBGV trong biên chế có 63 người, số lớp gồm 27 lớp và tổng số HS là 1006 HS. Về cơ sở vật chất: có 30 phòng học, khuôn viên nhà trường khang trang, xanh, sạch, đẹp, tuy nhiên các phòng chức năng, phòng bộ môn vẫn chưa có đầy đủ để đáp ứng nhu cầu dạy và học. Từ khi thành lập đến nay, thành tích của nhà trường đang từng bước được cải thiện và nâng lên song vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt trong công tác nâng cao chất lượng dạy và học. 
Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa thì trường cũng được trang bị trang thiết bị dạy học song chất lượng của một số dụng cụ thí nghiệm còn hạn chế, số lượng còn ít, vì vậy nếu giáo viên không chuẩn bị các dụng cụ thiết bị thí nghiệm một cách chu đáo trước khi lên lớp thì sẽ gặp khó khăn khi tiến hành thí nghiệm hoặc có trường hợp sẽ không thành công. Phong trào đổi mới phương pháp dạy học đã và đang diễn ra một cách rầm rộ. Tuy nhiên với đa số giáo viên, đặc biệt là giáo viên lớn tuổi vẫn còn lúng túng hoặc còn ngần ngại khi sử dụng thiết bị dạy học. Việc tập huấn sử dụng lắp ráp thí nghiệm cho giáo viên còn ít nên khi sử dụng đồ dùng hoặc lắp ráp thí nghiệm vẫn chưa có hiệu quả cao. Học sinh ít được tiếp cận với các đồ dùng hiện đại hàng ngày nên kiến thức thực tiễn về khoa học của học sinh còn nhiều hạn chế, mức độ hứng thú đối với bộ môn còn ít. 
Học sinh đa phần chưa hứng thú thậm chí ngại học với bộ môn vật lí vì cách dạy còn nặng phương pháp toán học, chú trọng kỹ năng giải bài tập mà các em thì phần nhiều học lực còn yếu đặc biệt về các môn tự nhiên. 
Mặt khác, trong SGK mới có rất nhiều kênh hình hỗ trợ cho quá trình giảng dạy, nhất là những hình mô tả hiện tượng, các thí nghiệm và thể hiện kết quả thí nghiệm, việc sử dụng thí nghiệm cho dạy học mới chỉ dừng lại ở những bài thực hành mang tính bắt buộc của chương trình ở những tiết thực hành theo phân phối chương trình. Nên nếu biết kết hợp công nghệ thông tin (có thể trình chiếu thí nghiệm ảo hoặc video về hiện tượng thực tế, thí nghiệm trong phòng thí nghiệm trên máy chiếu) với thí nghiệm biểu diễn vào các khâu của giờ học thì chất lượng giờ dạy được nâng cao. 
Qua tìm hiểu tình hình giảng dạy của nhiều giáo viên về vấn đề sử dụng thí nghiệm trong dạy học, tôi thấy gần như ít được áp dụng vào khâu đặt vấn đề, khởi động để khai thác kiến thức mới. Vì vậy hiệu quả giờ dạy còn chưa cao, chưa thực sự tạo được niềm say mê tìm hiểu tự nhiên của học sinh và thể hiện được đặc thù của môn học. 
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên nên đã không ít gây ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy nói chung và môn vật lí nói riêng. Kết quả kiểm tra khảo sát cơ bản môn vật lí của học sinh nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Học sinh nắm kiến thức còn mơ hồ, kỹ năng trình bày các thí nghiệm còn yếu. Nguyên nhân chính là do phương pháp dạy học cũ chưa tạo được cho học sinh tính tự giác, chủ động chiếm lĩnh tri thức thông qua các hoạt động thực hành, thí nghiệm, thậm chí học sinh không được tự mình làm các thí nghiệm để phát hiện tri thức. Vì vậy cần phải sử dụng phương pháp dạy học bằng thực nghiệm đặc biệt ở khâu đặt vấn đề của bài học nhằm thu hút, kích thích tính tò mò, hứng thú của học sinh, từ đó các em chủ động tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức một cách sâu sắc và lâu dài. Qua đó học sinh có niềm yêu thích môn học, chủ động tư duy, giải quyết vấn đề bài học, các em sẽ nắm kiến thức một cách chắc chắn và có kỹ năng thực hành thí nghiệm, từ đó đưa chất lượng giảng dạy bộ môn được nâng cao. 
2.3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn vật lí, trong các năm học và đặc biệt trong năm 2016 - 2017 tôi đã thực hiện nghiên cứu dạy học bằng phương pháp đưa thí nghiệm, hiện tượng vật lí thực tiễn vào khâu đặt vấn đề, khởi động của bài học nhằm tạo tình huống có vấn đề ở một số bài học trong chương trình vật lí phổ thông theo các hoạt động như sau: 
+ Trước hết, giáo viên cần xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học hoặc chuyên đề, tìm hiểu các hiện tượng, thí nghiệm liên quan dựa trên kinh nghiệm vốn có bản thân, tài liệu sách vở hoặc internet,để đưa vào bài học cho học sinh tiếp cận vấn đề một cách dễ hiểu và thuận lợi nhất.
+ Sau đó tùy vào từng kiểu bài học, từng đối tượng học sinh, giáo viên có thể tổ chức hoạt động khởi động thông qua thí nghiệm, hiện tượng cho phù hợp. Ở đây tôi chia ra hai kiểu bài học:
* Đối với kiểu bài học mà kiến thức trong bài được rút ra định lượng thông qua xử lí số liệu của thí nghiệm thì tiến hành như sau:
- Thứ nhất: Làm xuất hiện vấn đề bằng cách giáo viên tổ chức tình huống có vấn đề làm nảy sinh mâu thuẫn nhận thức, tạo sự bất ngờ lôi cuốn các em vào bài học. Khi nhận thức đã trở thành nhu cầu thì ý thức xuất hiện, động cơ thúc đẩy, chủ thể hành động. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện vấn đề và phát biểu vấn đề thành lời được nghiên cứu. Từ vấn đề đã được rút ra gợi cho học sinh ham muốn tìm hiểu nghiên cứu.
- Thứ hai: Xây dựng dự đoán, có thể đúng hoặc sai. Từ vấn đề đã được rút ra học sinh suy nghĩ hướng giải quyết, mỗi học sinh có thể đưa ra dự đoán của mình. 
- Thứ ba: Hướng dẫn để học sinh đề xuất thực hiện một phương án thí nghiệm và thí nghiệm kiểm tra với những đối tượng học sinh khá hơn. Giáo viên cho học sinh phát biểu một phương án thí nghiệm kiểm tra. Tiến hành thí nghiệm, quan sát hiện tượng, ghi nhận xét kết quả, công bố kết quả. Dựa vào kinh nghiệm của mình học sinh có thể đưa ra một số phương án. Từ các phương án mà học sinh đưa ra giáo viên tổ chức cho học sinh chọn một phương án hay và tổ chức cho các nhóm tiến hành làm thí nghiệm, quan sát và ghi nhận xét kết quả, các nhóm công bố kết quả. Từ dự đoán ở trên học sinh nêu phương án thí nghiệm để kiểm tra điều dự đoán. Giáo viên tổ chức phát dụng cụ cho các nhóm tiến hành làm thí nghiệm, quan sát và ghi nhận kết quả, các nhóm công bố kết quả. Lưu ý: Trong hoạt động này rèn luyện cho học sinh thái độ làm việc nghiêm túc, khoa học tránh được những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình làm thí nghiệm. Mặt khác bồi dưỡng năng lực ứng xử, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, thảo luận giữa các nhóm với nhau và thống nhất kết quả cuối cùng. Trong hoạt động này cần lưu ý cho học sinh bằng những định hướng của các phương án thí nghiệm trên các em thực tế bắt tay vào sờ mó và điều khiển, tiến hành thí nghiệm, thu thập thông tin. Việc ghi chép các thông tin thu được, thành lập biểu bảng một cách trung thực. Trong khi hình thành kiến thức cần chú trọng nhiều đến phương pháp suy luận quy nạp. Cần chú trọng việc phát triển ngôn ngữ cho học sinh, rèn luyện cho các em kĩ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác ngôn ngữ vật lí thông qua việc thảo luận nhóm, tạo điều kiện cho các em được nói nhiều hơn ở nhóm, ở lớp. 
- Thứ tư: Thảo luận để mọi người chấp nhận kết quả. Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo luận rút ra kết quả.
- Thứ năm: Ứng dụng kiến thức mới. Từ kết quả 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_xay_dung_tinh_huong_co_van_de_thong_qua_thi_nghiem_de_t.docx